Từ "kiện người - người kiện"...
Kèm đơn kêu cứu và hồ sơ liên quan, bà Vũ Thị Phương (vợ ông Tuấn) trình bày: Ngày 31/5/2010, vợ chồng ông N. ký hợp đồng chuyển nhượng (HĐCN) cho vợ chồng bà lô đất 149,7m2 (cắt ra từ khu đất ở 713,2m2 của vợ chồng ông N.). Trên đất có căn nhà cấp 4, được cấp số nhà 494A Nguyễn Thị Định (NTĐ).
Hoàn tất thủ tục, vợ chồng bà được UBND Q.2 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (gọi tắt "GCN") số BB 874993 ngày 06/9/2010, sau đó thay thế bằng GCN số BB 874500 ngày 21/10/2010 với 134,8m2 đất (trừ 14,9m2 lộ giới) thuộc thửa 576. Quá trình xin giấy phép và xây nhà, gia đình bà phát hiện lô đất chỉ có 129,4m2, bị "hụt" 5,6m2.
Tại biên bản do UBND P. Thạnh Mỹ Lợi lập ngày 23/11/2010, chủ đất đồng ý trả cho vợ chồng bà 208 triệu đồng. UBND phường kết luận: "Sau khi giao tiền cho bà Phương, thì 5,6m2 đất thuộc quyền sử dụng của vợ chồng ông N. Và ông N. tiếp tục xây nhà 494 NTĐ. Các bên thực hiện đúng nội dung thỏa thuận, không có quyền tranh chấp, khiếu nại gì về sau". Tuy nhiên, tranh chấp vẫn tiếp diễn sau đó.

Căn nhà 494A NTĐ
Ngày 17/12/2012, UBND Q.2 có văn bản số 4348/UBND-TNMT gửi vợ chồng ông N., nêu rõ: Lô đất ông, bà chuyển nhượng theo bản vẽ sơ đồ số 614/10/ĐĐBĐ/Q2 lập ngày 11/5/2010 với 149,7m2 đất (ngang 5m, nở hậu 5,4m). Tuy nhiên, theo tọa độ trên bản vẽ thể hiện chiều rộng lô đất là 5,37m, dẫn đến việc xác định diện tích, kích thước lô đất không chính xác. Khi phát sinh tranh chấp HĐCN, UBND P. Thạnh Mỹ Lợi đã tổ chức hòa giải thành. Sau đó, bà Phương xây dựng nhà số 494A NTĐ. Ông, bà cũng đã xây nhà sát ranh thửa đất 576. Ngày 21/6/2011, bà Phương nộp hồ sơ hoàn công nhà với 129,4m2 đất (ngang 5m).
Ngày 10/7/2012, UBND Q.2 có văn bản hướng dẫn các bên liên hệ TAND Q.2 để giải quyết tranh chấp. Nay, bà Phương tiếp tục có đơn đề nghị cấp GCN.
UBND Q.2 xác định: "Qua ghép ranh vị trí thửa đất 576, UBND Q.2 nhận thấy không có sự trùng lấn, không có khoảng hở so với nhà số 492 NTĐ theo GCN do UBND Q.2 cấp ngày 12/6/2003. Đồng thời, thửa đất này có khoảng hở 5,6m2 so với ranh đất ông bà sử dụng. Việc ông bà cho rằng bà Phương tịnh tiến lô đất lấn sang phần đất của ông, bà và chừa 1 phần đất sang nhà 492 NTĐ là không có căn cứ".
Từ những nhận định trên, UBND Q.2 đề nghị ông, bà cung cấp giấy tờ chứng minh việc tranh chấp. Quá thời hạn 10 ngày, nếu ông, bà không cung cấp, UBND Q.2 sẽ xem xét giải quyết hồ sơ cấp GCN cho ông Tuấn - bà Phương theo quy định.
Ngày 26/12/2012, ông N. khởi kiện yêu cầu vợ chồng bà Phương thực hiện đúng HĐCN, điều chỉnh đúng diện tích trên GCN và trả lại 208 triệu đồng. Vụ kiện được TAND thụ lý ngày 16/01/2013, giao Thẩm phán (TP) Nguyễn Thị Trúc Chi giải quyết.
Sau khi xem xét, ngày 28/10/2013, UBND Q.2 đã cấp GCN số BR 385015 cho vợ chồng bà Phương với diện tích đất 129,4m2. Bị đơn có đơn phản tố 25/8/2014 và đơn "phản tố bổ sung" ngày 30/11/2016, yêu cầu ông N. trả 0,4m2 đất đã giao thiếu (phía sau thửa 576) và diện tích chồng ranh 0,2m2.
Trước đó, ông N. có đơn "khởi kiện bổ sung" ngày 12/3/2014, yêu cầu Tòa án hủy GCN số BR 385015, buộc bị đơn tháo bỏ phần xây dựng "lấn chiếm không gian" của nhà ông N. (ước tính khoảng 12-15cm), tháo bỏ phần xây dựng chồng lấn sang ranh đất ông N. và xây bít cửa sổ nhìn trực diện sang nhà ông.

Bà Vũ Thị Phương bên hồ sơ vụ án
Đến tất cả cùng... chờ (!)
Bà Phương trình bày tiếp: ngày 15/8/2023, TP Chi chủ trì phiên họp "kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ". Ông N. nêu ý kiến thể hiện trong biên bản: yêu cầu bị đơn trả lại 208 triệu đồng; rút toàn bộ các yêu cầu còn lại. Theo nguyên đơn, diện tích đất của bị đơn được cấp GCN cộng diện tích bị giải tỏa thì phù hợp với diện tích chuyển nhượng. Phía bị đơn đã chỉnh lại tọa độ, kích thước các cạnh khác so với bản vẽ số 614/10/ĐĐBĐ/Q2 và bỏ đi "đầu thừa đuôi thẹo" cho đẹp đất.
Bị đơn nêu ý kiến: Việc nhận 208 triệu đồng là đúng theo biên bản hòa giải ngày 23/11/2010, ông N. cam kết không thắc mắc, khiếu nại. Sau khi nhận tiền, gia đình đã điều chỉnh lại GCN, diện tích giảm đi 5,6m2, còn lại 129,4m2. Cộng với phần đất giải tỏa 14,9m2 thì đúng bằng diện tích chuyển nhượng. Bị đơn yêu cầu nguyên đơn trả 0,4m2 đất giao thiếu và 0,2m2 chồng ranh.
Ngày 29/8/2023, TP Chi ký QĐ số 5645 đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm vào ngày 22/9/2023. Tuy nhiên, phiên tòa hoãn do vắng mặt đại diện UBND Q.2.
Gần 1 năm sau, TP Chi ký QĐ số 6278 ngày 02/8/2024, đưa vụ án ra xét xử ngày 29/8/2024. Phiên tòa 1 lần nữa bị hoãn do vắng mặt đại diện UBND Q.2.
Chờ suốt gần 2 năm, vụ án vẫn rơi vào "im lặng" nên ngày 14/5/2025, ông Tuấn có đơn khiếu nại TP Chi "giải quyết vụ án không khách quan, kéo dài vô căn cứ", gây thiệt hại nghiêm trọng cho gia đình ông cả vật chất lẫn tinh thần.
Khiếu nại này đã bị TAND TP. Thủ Đức bác, thể hiện tại QĐ số 29/2025/QĐ-GQKN (QĐ số 29) do Phó Chánh án (PCA) Nguyễn Thị Thu Sương ký ngày 13/6/2025. Tuy bác khiếu nại nhưng PCA Sương xác định vụ kiện được Tòa án thụ lý ngày 16/01/2013, tính đến nay đã hơn 12 năm 8 tháng!
Tại QĐ số 29, PCA Sương nêu ý kiến của các bên. Trong đó, nguyên đơn trình bày: Sau khi ký HĐCN, 2 bên đã giao nhận đất, có lập biên bản cắm cọc ngày 07/10/2010. Bị đơn đã xây hết đất, được UBND Q.2 cấp GCN số BB 874993. Nguyên đơn xây nhà sau bị đơn, tường xây sát vách tường nhà bị đơn và có chừa khoảng cách 15cm. Khi nguyên đơn đang xây thì bị đơn được UBND Q.2 cấp GCN số BB 874500 (lần 2), tổng diện tích không thay đổi nhưng chiều ngang từ 5m thành 5,37m. UBND P. Thạnh Mỹ Lợi ngăn ông xây nhà do lấn đất; mời 2 bên làm việc, thỏa thuận. Ông N. khiếu nại việc cấp GCN số BB 874500. Ngày 27/4/2012, UBND Q.2 ra QĐ thu hồi GCN BB 874993, nhưng tại phần quyết định thì thu hồi số GCN BB 874500...
Quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã 2 lần bổ sung yêu cầu khởi kiện, bị đơn nhiều lần bổ sung yêu cầu phản tố và phát sinh những tình tiết làm ảnh hưởng tiến độ giải quyết. Cụ thể: Trung tâm Đo đạc bản đồ (TTĐĐBĐ) tiến hành đo vẽ nhưng không thực hiện được; khiếu nại, tố cáo việc cấp GCN; 1 phần diện tích tranh chấp bị giải tỏa làm đường; nguyên đơn có lúc rút 1 phần yêu cầu hủy GCN nhưng sau đó lại yêu cầu hủy GCN, rút yêu cầu lấp cửa sổ rồi lại bổ sung yêu cầu này.
TAND TP. Thủ Đức phải thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng như: Thông báo thụ lý bổ sung yêu cầu của đương sự, yêu cầu các bên cung cấp bản vẽ liên quan đến diện tích tranh chấp; chờ kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan có thẩm quyền; chờ UBND TP. Thủ Đức cử người tham gia tố tụng. Hiện nay, TTĐĐBĐ vẫn chưa bổ sung vị trí cửa sổ có tranh chấp; UBNDTP. Thủ Đức chưa cử người tham gia tố tụng.

Đơn khiếu nại (trang 1 và 3) của ông Tuấn và QĐ bác đơn của TAND TP. Thủ Đức
PCA Sương kết luận: "Hiện tại thẩm phán đang tiến hành các thủ tục tố tụng theo luật định để đảm bảo giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện. Sau khi thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ, TAND TP. Thủ Đức sẽ đưa vụ án ra xét xử".
Gia đình bà Phương rất bất ngờ khi nhận được QĐ số 29. Bị đơn đặt câu hỏi: "Có phải những tình tiết phát sinh được nêu trong QĐ số 29 khiến cho vụ tranh chấp 5,6m2 đất kéo dài 12 năm 8 tháng và chưa biết bao giờ mới kết thúc? Vợ chồng tôi mua đất ở theo hợp đồng công chứng, diện tích rõ ràng, vẫn còn nguyên đó. Tôi mong muốn được đo đạc lại, nếu tôi sai thì sẵn sàng trả lại tiền và bồi thường thiệt hại theo phán quyết của tòa. Thiết nghĩ, việc đo đạc lô đất ở 134,8m2 (đã trừ 14,9m2 lộ giới) ngay mặt tiền đường NTĐ không quá phức tạp để vụ án "lê thê” suốt hơn 1 thập kỷ.
Bà Phương bày tỏ: "Có nhiều điểm để khiếu nại đến Chánh án TAND TPHCM xem xét nhưng chúng tôi quyết định dừng lại, chờ đến phiên tòa sơ thẩm sẽ trình bày. Nếu tiếp tục khiếu nại, vụ án sẽ kéo dài thêm, thiệt hại lại chồng chất theo thời gian. Qua Báo CATP, chúng tôi tha thiết đề nghị lãnh đạo TAND khu vực 2 quan tâm, chỉ đạo thẩm phán khẩn trương hoàn tất hồ sơ, sớm đưa vụ án ra xét xử, kết thúc hành trình ở giai đoạn sơ thẩm...".