80 năm ngành ngoại giao Việt Nam - Sải rộng đôi cánh hòa bình

Thứ Năm, 21/08/2025 11:00

|

(CATP) Kế thừa truyền thống hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại không chỉ giữ vững bản sắc độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đảm bảo cao nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc, mà còn góp phần tạo nên “hình mẫu” lan tỏa các giá trị về công bằng trong một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, bình đẳng trong các nguyên tắc ứng xử không phân biệt nước lớn - nước nhỏ và tinh thần sẵn lòng tương trợ lẫn nhau trong khó khăn ra toàn khu vực và thế giới.

GIƯƠNG CAO NGỌN CỜ ĐẦU CỦA PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC

Với xuất phát điểm thời kỳ hiện đại từ một vùng đất thuộc địa hiếm hoi phải chịu hai tầng đô hộ khắc nghiệt từ các thế lực thực dân và phát xít, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nền ngoại giao Việt Nam giai đoạn 1945 - 1946 giúp chính phủ lâm thời phát huy tối đa năng lực đảm bảo “nội yên ngoại tĩnh” nhằm kiềm chế cùng một lúc các áp lực “thù trong” từ giặc đói, giặc dốt và phe nhóm phản cách mạng, lẫn âm mưu của “giặc ngoài” đến từ các thế lực thực dân muốn dựa trên vỏ bọc giải giáp lực lượng phát xít thua trận để chiếm đóng miền Nam Việt Nam một lần nữa.

Để rồi, khi kẻ thù rắp tâm xâm lược trở lại, ngành ngoại giao Việt Nam vẫn không lùi bước trước mưa bom bão đạn, tiếp tục mở ra mặt trận mới với những cách tiếp cận “ứng vạn biến” - đột phá, bản lĩnh, tâm công, linh hoạt và rộng mở, sát cánh cùng công cuộc kháng chiến kiến quốc gian khổ trường kỳ suốt 30 năm lịch sử của dân tộc cho đến thắng lợi cuối cùng - giữ vững nền độc lập, chủ quyền thiêng liêng - nhân tố“dĩ bất biến” của nước nhà.

Tổng Bí thư Tô Lâm và phu nhân tại sân bay quân sự Seongnam, Seoul, Hàn Quốc, ngày 10/8/2025

Ngay sau thời điểm Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp đầu tiên khẳng định được tính chính danh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào tháng 11-1956, đứng trước áp lực tấn công quân sự tổng lực của các thế lực thực dân, ngoại giao Việt Nam đã liên tục phát huy tính chất pháp lý của hai Hiệp định Sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), dẫn chiếu đến các nguyên tắc trong Hiến chương Liên Hợp Quốc để liên tục vận động dư luận khu vực và quốc tế lên án cuộc xâm lược phi nghĩa của thực dân Pháp.

Sự phối hợp giữa hai mặt trận ngoại giao và quân sự đã tạo nền tảng quan trọng giúp Việt Nam ta phát huy tối đa hiệu quả các thắng lợi trên chiến trường trở thành thắng lợi khiến đối phương suy giảm ý chí trên bàn đàm phán. Điển hình nhất là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” được chuyển hóa thành kết quả Hiệp định Geneva năm 1954, buộc thực dân Pháp phải công nhận độc lập toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương, và sau đó là chiến thắng Điện Biên Phủ trên không dẫn đến việc Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris năm 1973 chấp nhận rút quân hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam.

Đứng trước các thế lực thực dân - đế quốc hùng mạnh, ngoại giao Việt Nam không chỉ xuất sắc góp phần hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “vừa đánh vừa đàm” mà còn ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử ngoại giao thế giới khi như một hình mẫu “ngọn cờ đầu” đánh bại cả chủ nghĩa thực dân kiểu mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào phản chiến trên toàn thế giới giúp thúc đẩy cao trào giải phóng dân tộc trong hai thập niên 60 và 70. Cao trào này cũng định hình nên xu hướng gắn kết giữa các nước nhỏ ở Á- Phi - Mỹ Latinh, củng cố nền tảng hợp tác giữa các quốc gia Nam Bán cầu về sau như một lựa chọn đối ngoại quan trọng giúp điều hòa các cực đối trọng trong quan hệ quốc tế.

SẢI CÁNH TUNG BAY TRÊN BẦU TRỜI KIẾN TẠO HÒA BÌNH

Dẫu mới bước ra khỏi khói lửa chiến tranh nhưng ngoại giao Việt Nam không chọn tư duy tích lũy hằn thù như nhiều quốc gia khác. Với phương châm “Khép lại quá khứ, hướng đến tương lai”, với ảnh hưởng được ví như “Trái tim của nhân loại, lương tri của loài người” trong mắt của dư luận tiến bộ quốc tế, Việt Nam đã chủ động tham gia đàm phán bình thường hóa quan hệ với các nước lớn có ảnh hưởng ở Bắc bán cầu, giải tỏa các rào cản cho tiến trình hội nhập quốc tế.

Cùng lúc đó, Việt Nam cũng tích cực thúc đẩy xu hướng kiến tạo hòa bình trong khu vực bằng thông qua “Tuyên bố 4 điểm” với ASEAN vào tháng 7-1976, ủng hộ lập trường hòa hợp giữa các quốc gia Đông Nam Á thể hiện qua Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) và Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN (Tuyên bố Bali) được ký kết nhân dịp Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ nhất tổ chức vào tháng 2-1976.

Tuy nhiên bầu trời hòa bình vẫn chưa thể trong xanh, ngành ngoại giao nước nhà lại cùng cả dân tộc Việt Nam tiếp tục vượt qua hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc, đối phó với các hiểu lầm làm lung lay niềm tin của bạn bè khu vực và quốc tế trong bối cảnh các lệnh bao vây cấm vận kinh tế vẫn chưa được dỡ bỏ đến tận 20 năm sau đó.

Với các chủ trương đối ngoại thời kỳ Đổi Mới sau Đại hội Đảng lần VI (1986), nhất quán chủ trương “không làm thay” để tập trung công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh, và “không làm theo” để không dẫm phải vết xe đổ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa kiểu cũ, ngay sau Hội nghị Paris về vấn đề Campuchia năm 1991, ngoại giao Việt Nam đã thành công khẳng định được lập trường kiến tạo hòa bình trước dư luận khu vực và quốc tế. Phải đến lúc này, tiến trình hội nhập khu vực cùng với xu hướng dỡ bỏ các lệnh cấm vận kinh tế mới được đẩy nhanh, hội tụ tất cả vào cột mốc tháng 7-1995 đưa Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội ASEAN ngay sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ.

TIẾP NỐI HÀNH TRÌNH GẮN KẾT THẾ GIỚI TRONG KỶ NGUYÊN VƯƠN MÌNH

Kể từ cột mốc giải tỏa tất cả các “điểm nghẽn” trong quan hệ quốc tế, ngành ngoại giao đã phát huy tối đa năng lực trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước ở cả ba chiều kích. Về chiều rộng, từ lập trường “thêm bạn bớt thù” ở Nghị quyết 13 năm 1988 trong Đại hội VI, phát triển thành phương châm “muốn là bạn”, đến “là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm” ở các kỳ Đại hội tiếp theo, Việt Nam đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế, đã ký 17 FTA, có 15 di sản được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Đảng ta cũng xây dựng quan hệ với hơn 230 chính đảng của 119 nước trên thế giới.

Về chiều ngang, Việt Nam đang nỗ lực cùng ASEAN thiết lập mạng lưới gắn kết các quốc gia Nam Bán cầu mạnh về tài nguyên và nhân lực. Và về chiều sâu, từ một nước nhỏ thuộc địa, Việt Nam đã vươn lên trở thành đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các nước lớn ở Bắc bán cầu, dẫn đầu về công nghệ và vật lực trong tổng thể 12 đối tác chiến lược toàn diện, 8 đối tác chiến lược và 14 đối tác toàn diện kể từ Đại hội X (2006). Thông qua mạng lưới gắn kết song phương các quốc gia ở Á- Phi - Mỹ Latinh và Á- Âu - Bắc Mỹ, Việt Nam đã tiên phong thúc đẩy sự định hình các cơ chế hợp tác liên khu vực ở cả hai khu vực Nam Bán cầu và Bắc Bán cầu có sự gắn kết chặt chẽ với khu vực Đông Nam Á, góp phần định hình sự gắn kết hài hòa về lợi ích không phân biệt nước lớn - nước nhỏ trong một trật tự quốc tế đa cực.

Như vậy, sau hành trình 80 năm trưởng thành và phát triển, ngoại giao Việt Nam đã trở thành mối nối không thể thiếu, tạo nên sự gắn kết giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, định hình thương hiệu “ngoại giao cây tre Việt Nam”, từ trong môi trường khắc nghiệt vẫn vươn lên kiên cường, bền bỉ nhưng cũng vô cùng mềm dẻo và linh hoạt. Trong thực tiễn đối ngoại mới của kỷ nguyên vươn mình, đứng trước các thách thức và cơ hội mới, ngoại giao Việt Nam đã sẵn sàng đầy đủ thế và lực để viết tiếp hành trình của dân tộc, hiện thực hóa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Ngoại giao ai thuận lợi hơn, là thắng”.

Bình luận (0)

Lên đầu trang