Như khẳng định của Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Hoàng Bình Quân trong trả lời phỏng vấn với phóng viên Báo CATP, thì đó là một chuyến thăm lịch sử, mở cánh cửa tương lai cho quan hệ Việt - Mỹ mà ở đó hai bên từ hiểu biết, chia sẻ, chấp nhận và tôn trọng nhau hơn.
CUỘC HỘI ĐÀM CHO TƯƠNG LAI
- Phóng viên: Trước khi Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao của Đảng Cộng sản Việt Nam tới Hoa Kỳ, có nhận định cho rằng chuyến thăm này mang tính chất biểu tượng. Với những gì đã diễn ra trong các cuộc gặp giữa hai bên, ông có cho rằng chuyến đi vừa rồi chỉ dừng lại ở mức độ đó không?
- Ông Hoàng Bình Quân: Tại sao người ta nghĩ rằng chuyến thăm có tính biểu tượng? Vì người ta nghĩ hai nước có hai chế độ chính trị rất khác biệt, trước đây lại từng có sự đối đầu nên khi bàn về vấn đề gì đó thì sự hiểu biết, chia sẻ được sẽ không nhiều. Nhưng thực tế thì không phải như vậy, tôi khẳng định là chuyến thăm chính thức của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Hoa Kỳ không những mang tính biểu tượng sâu sắc, mà còn có kết quả rất toàn diện và thực chất.
Sở dĩ nói chuyến thăm mang tính biểu tượng sâu sắc vì đây là một chuyến thăm lịch sử. Chuyến thăm lịch sử là bởi được thực hiện theo lời mời của Chính quyền Tổng thống Hoa Kỳ, một nước cựu thù, một nước có hệ thống chính trị khác biệt, tới Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, một chức danh tương đương không có trong hệ thống quản trị của Hoa Kỳ. Mà điều đặc biệt, là Hoa Kỳ lại hết sức coi trọng chuyến thăm này, đón Tổng bí thư ta rất trọng thị, với nghi thức rất cao.
Đồng chí Hoàng Bình Quân, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương. Ảnh Ngọc Thắng.
Để chuẩn bị cho chuyến thăm, Hoa Kỳ đã phối hợp với Việt Nam để sắp xếp một chương trình làm việc rất phong phú, toàn diện trong đó có nhiều cuộc gặp quan trọng. Đặc biệt là cuộc hội đàm lịch sử giữa Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Barack Obama diễn ra ngay tại Phòng Bầu dục Nhà Trắng, kéo dài đến 95 phút, so với dự kiến lúc đầu từ phía Mỹ là 45 - 60 phút.
Việc buổi hội đàm kéo dài hơn rất nhiều so với dự kiến cho thấy câu chuyện giữa hai nhà lãnh đạo trao đổi với nhau rất quan trọng, rất thiết thực, rất thực chất và thú vị nên đã “quên giờ giấc”. Điểm đặc biệt nữa chưa từng có trong lễ tân của nước Mỹ là cùng tiếp đón Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Obama còn có cả Phó tổng thống Mỹ Joe Biden, Cố vấn an ninh quốc gia Susan Rice, Bộ trưởng Bộ Tài chính Jack Lew, Đại diện Thương mại Michael Froman cùng nhiều quan chức khác.
Với thái độ cởi mở, thẳng thắn, tích cực, xây dựng, hai bên đã bàn những vấn đề rất quan trọng của hai nước, các vấn đề hai bên cùng quan tâm như tình hình Biển Đông và đặc biệt là hai bên đã không né tránh những vấn đề còn khác biệt. Với việc mời Tổng bí thư thăm chính thức với chương trình, nội dung làm việc thực chất, Hoa Kỳ đã thể hiện sự tôn trọng đầy đủ hơn hệ thống chính trị của Việt Nam, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và cá nhân đồng chí Tổng bí thư.
Bên cạnh tính biểu tượng rất cao, tính thực chất của chuyến thăm thể hiện rõ nhất ở việc hai bên đã ra Tuyên bố tầm nhìn chung Việt Nam - Hoa Kỳ. Đây là một văn kiện rất quan trọng đối với cả hai phía.
Phải nói rằng sẽ không thể có tuyên bố chung trong chuyến thăm nếu hai bên không đạt được những vấn đề thực chất. Thậm chí, tuyên bố chung này được nâng lên từ tuyên bố chung của hai nhà lãnh đạo thành tuyên bố chung của hai quốc gia. Tuyên bố chung khẳng định rõ tầm nhìn chung, khẳng định chuyến thăm của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng là chuyến thăm lịch sử, nghĩa là một dấu mốc vô cùng quan trọng cho thấy Việt Nam và Hoa Kỳ sẵn sàng bước vào một chương mới cho quan hệ song phương. Vì thế, ở Mỹ, đã có những ý kiến nhìn nhận rằng cuộc hội đàm giữa hai nhà lãnh đạo là cuộc hội đàm cho tương lai.
Trong các cuộc hội đàm, tiếp xúc, hai bên đã trao đổi sâu sắc, xác định tầm nhìn, định hướng quan hệ, bàn thảo thúc đẩy hợp tác trên tất cả các lĩnh vực, chia sẻ sâu sắc những vấn đề khu vực và quốc tế trong đó có vấn đề Biển Đông.
Cùng với cuộc hội đàm, các cuộc tiếp xúc, gặp gỡ của Tổng bí thư tại Hoa Kỳ đều để lại những dấu ấn quan trọng. Và thông điệp lớn mà người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam muốn chuyển đến các giới chức, doanh nhân, tầng lớp xã hội Hoa Kỳ chính là tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”.
ĐI TRÊN CON ĐƯỜNG CÓ LỢI ÍCH CHUNG
- Vâng, ông vừa nhắc tới 16 chữ “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai” mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã hơn một lần đề cập đến trong các cuộc gặp gỡ, trao đổi tại Hoa Kỳ. Liệu có thể hiểu đây là một cam kết, hoặc là dấu hiệu cho thấy sự chuyển biến tư duy đối ngoại của Việt Nam không, thưa ông?
- Ông Hoàng Bình Quân: Phải nói rằng Việt Nam - Hoa Kỳ đã trải qua một chặng đường lịch sử không hề dễ dàng. Nhưng kể từ bình thường hóa quan hệ giữa hai nước đến nay đã có những chuyển biến sâu sắc mà ít quốc gia nào làm được, nhất là trong một thời gian ngắn như vậy. Có được kết quả đó là nhờ nỗ lực của hai bên. 16 chữ Tổng bí thư nêu và tôi vừa nhắc đến chính là tinh thần ấy. Dựa trên tinh thần đấy, dựa trên phương châm đấy để hai bên cùng nỗ lực nhằm có một kết quả tốt hơn. Tinh thần này được Tổng bí thư nêu lên trong các cuộc gặp và phía Mỹ rất chia sẻ, điều đó cũng có nghĩa là phản ánh nhận thức chung của hai bên. Tôi nghĩ đặt từ “cam kết” thì chưa thỏa đáng, nhưng nó thực sự là một chuyển biến trong nhận thức. Thực tế là hai mươi năm qua chúng ta đã thực hiện tinh thần này để có một sự nỗ lực, cùng với sự nỗ lực của phía Hoa Kỳ để có được thành quả như hôm nay. 16 chữ này mình đã làm, mình đang làm và mình sẽ làm, bây giờ được nêu ra, được bàn thảo và được thể hiện tinh thần đó vào tuyên bố chung.
- Với những điều đã diễn ra trong chuyến thăm, có nhiều nhận định cho rằng: “Việt - Mỹ đã vượt qua giai đoạn khó khăn”. Theo ông, điều này có thể hiểu là hai nước đã tìm thấy những điểm tương đồng không?
- Ông Hoàng Bình Quân: Chúng ta đã thấy rồi, điểm tương đồng rất lớn là hai mươi năm qua hai nước đã đi trên cùng một con đường có lợi ích chung. Lợi ích được chia sẻ là tăng cường hợp tác song phương, toàn diện và vì sự phát triển, phồn vinh của mỗi nước và hạnh phúc của nhân dân hai nước.
Mặt khác, Việt Nam và Hoa Kỳ cùng có lợi ích chung là thúc đẩy hợp tác trong khu vực, từ đó góp phần gìn giữ môi trường hòa bình, hợp tác ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là duy trì hòa bình, an ninh, an toàn và hàng hải ở Biển Đông trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế.
Hai nước còn có lợi ích chung trong nỗ lực phối hợp để đóng góp cho các vấn đề chung của thế giới với tư cách là những quốc gia, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Ở một khía cạnh khác, chúng ta có thể thấy hai bên đã hiểu biết nhau hơn, tôn trọng nhau hơn và đây là kết quả của phương châm chủ động, tích cực đối thoại giữa hai nước. Điều này góp phần rất quan trọng trong quan hệ Việt - Mỹ.
Về mặt chính trị mà nói thì xây dựng niềm tin, tôn trọng lẫn nhau, hiểu biết lẫn nhau, chấp nhận nhau và hợp tác với nhau là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, khác biệt là một thực tế tồn tại bất cứ giữa hai thực thể độc lập nào, không riêng gì giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Trên thực tế, giữa hai nước đã có một quá khứ không dễ dàng, lại hai chế độ chính trị khác nhau nên có những khác biệt, ví dụ như quan niệm, cách tiếp cận, xử lý về vấn đề nhân quyền hay những vấn đề về ngôn luận, dân chủ... Hai bên cần tiếp tục đối thoại trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở, xây dựng để hiểu nhau hơn. Từ hiểu nhau hơn sẽ chia sẻ với nhau hơn, từ chia sẻ nhau hơn sẽ tôn trọng nhau hơn và tôn trọng nhau hơn thì sẽ hợp tác tốt hơn.
- Như ông nói thì rõ ràng hai bên vẫn cần thời gian để xích lại gần nhau hơn. Xin hỏi, tại các cuộc hội đàm và gặp gỡ vừa qua, khoảng cách giữa các bất đồng đã được thu hẹp chưa?
- Ông Hoàng Bình Quân: Tôi thấy rõ là hai bên đã hiểu nhau hơn và chắc chắn sẽ chia sẻ với nhau nhiều hơn, tôn trọng nhau hơn. Khi sự hiểu biết có một bước chuyển biến thì đương nhiên sẽ tạo ra những thuận lợi trong quá trình tiếp tục đối thoại giữa hai bên.
- Qua câu chuyện có thể thấy ông rất tin tưởng vào sự phát triển của quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Vậy theo ông, những nỗ lực của chúng ta để có những cải cách cần thiết như ông từng nói là gì?
- Ông Hoàng Bình Quân: Tôi nghĩ là cả hai bên đều cần phải có những sự hoàn thiện hơn. Như ở lĩnh vực đầu tư chẳng hạn, hiện nay đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam ở vị trí không cao (đứng thứ 7). Tất nhiên, “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, bản thân chúng ta cũng thấy chúng ta còn có những vấn đề cần phải cải cách hay hoàn thiện hơn như cải cách thủ tục hành chính, sửa đổi bổ sung hệ thống luật pháp làm sao thực sự tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các nhà đầu tư Hoa Kỳ.
Hay vấn đề TPP chẳng hạn. Chúng ta có hoàn cảnh của chúng ta, nhưng khi chúng ta là một thành viên tham gia đàm phán, tham gia một “cuộc chơi chung” thì đương nhiên chúng ta cần có lộ trình phù hợp. Lộ trình phù hợp ấy chính là ta cần có thời gian để thực hiện những cải cách cần thiết để có đủ điều kiện, khả năng góp mặt vào một “sân chơi chung” đó.
- Trân trọng cảm ơn ông!
MỸ CÓ MỐI QUAN TÂM RẤT LỚN VỀ BIỂN ĐÔNG
Ông Hoàng Bình Quân (ảnh) khẳng định như vậy, khi được hỏi vấn đề Biển Đông đã được nhắc tới như thế nào trong cuộc hội đàm giữa hai bên. Theo ông Quân, nội dung này được trao đổi trong cuộc hội đàm, phát biểu tại họp báo ngay sau hội đàm rồi được thể hiện trong tuyên bố chung và được Tổng bí thư trao đổi với chính giới Hoa Kỳ.
Ông Hoàng Bình Quân. Ảnh Ngọc Thắng
Mỹ có mối quan tâm rất lớn về tự do thông thương, giao thông trên biển theo pháp luật quốc tế và mối quan tâm hay lợi ích chiến lược của Mỹ là duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực, phù hợp với lợi ích chung. Bất cứ một quốc gia có trách nhiệm nào cũng phải gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, đảm bảo tự do, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông và khu vực.
Vì vậy, hai nước bày tỏ quan ngại về những diễn biến gần đây ở Biển Đông, làm gia tăng căng thẳng và xói mòn lòng tin, đe dọa làm phương hại đến hòa bình an ninh ổn định.
Hai nước nhấn mạnh đến sự cần thiết về quyền tự do hàng hải, hàng không được quốc tế công nhận, kiềm chế những hoạt động làm gia tăng căng thẳng, đảm bảo các hành động và hoạt động phải phù hợp với luật pháp quốc tế, phản đối việc ép buộc, đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, ủng hộ giải quyết hòa bình các tranh chấp theo pháp luật quốc tế trong đó có Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS). Hai bên đã trao đổi rất thẳng thắn, rõ ràng về lập trường quan điểm cũng như thái độ về vấn đề này.