Đầu tư ra nước ngoài không được như kỳ vọng

Chủ Nhật, 17/10/2021 16:07

|

(CAO) Cùng với các nguyên nhân, thì dịch bệnh Covid-19 khiến cho các dự án đầu tư ở nước ngoài của Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực.

Cập nhật tình hình đầu tư ra nước ngoài của khối DNNN, DN có vốn nhà nước trong báo cáo gửi tới Quốc hội, Chính phủ cho biết, tính đến cuối năm 2020 có 28 DNNN, DN có vốn nhà nước (không bao gồm các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước) thuộc 4 Bộ (Quốc phòng, Xây dựng, Công Thương, Y tế), Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và 4 tỉnh (Hà Tĩnh, Đắk Lắk, An Giang, TPHCM) thực hiện 131 dự án đầu tư ra nước ngoài.

Riêng năm 2020 có 1 dự án đầu tư tại Lào của Tổng công ty Hợp tác kinh tế/QK4 thuộc Bộ Quốc phòng.

Tính đến cuối năm 2020, các DNNN, DN có vốn Nhà nước đầu tư ra nước ngoài hơn 6,7 tỷ USD. Ảnh minh họa

Tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện trong năm 2020 là 129,92 triệu USD, chủ yếu tại các dự án của các công ty con của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN); các dự án của Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam (VRG), dự án của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông (VNPT), dự án của Tập đoàn công nghiệp Viễn thông Quân đội (Viettel)...

Luỹ kế đến ngày 31/12/2020, tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài là 6.719,05 triệu USD (bằng 50% số vốn đăng ký). Trong số này, PVN có số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện lớn nhất với 3.973,52 triệu USD, chiếm 59% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện. Tiếp đến là Viettel với 1.454,9 triệu USD chiếm 22%. VRG đứng thứ ba với 925,8 triệu USD, chiếm 14%.

“Tổng số vốn đã đầu tư ra nước ngoài của 3 doanh nghiệp này chiếm 95% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của khối DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước” – báo cáo nêu.

Thông tin về lĩnh vực đầu tư, Chính phủ chia sẻ, các dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp chủ yếu thuộc lĩnh vực dầu khí; viễn thông; trồng, chế biến cây cao su; khai thác khoáng sản; nông nghiệp; xây lắp, thương mại, vận tải hàng không...

Xét về số lượng dự án, lĩnh vực trồng, chế biến cao su đang dẫn đầu với 33 dự án. Lĩnh vực viễn thông xếp kế tiếp với 32 dự án trong khi lĩnh vực dầu khí đứng thứ ba với 31 dự án.

Có 26 quốc gia nhận tiếp nhận vốn đầu tư của các DN Việt Nam, trong đó Campuchia có số dự án nhiều nhất, 41 dự án. Xếp thứ hai là Lào với 32 dự án, Malaysia 9 dự án, Singapore 8 dự án, Nga và Myanmar mỗi nước 5 dự án, Peru 4 dự án… Xếp theo tổng vốn đầu tư thực hiện, Campuchia cũng đứng đầu với 1.002,45 triệu USD (chiếm 15% tổng số vốn đầu tư lũy kế thực hiện).

Peru đứng thứ hai với 1.002,18 triệu USD (chiếm 15%), Malaysia đứng thứ ba với 963,96 triệu USD (chiếm 14%), tiếp đến là Nga 792,73 triệu USD (chiếm 12%), Algeria 704,71 triệu USD (chiếm 10%)...

Theo Chính phủ, tổng số vốn đầu tư thu hồi năm 2020 của các dự án là 248,58 triệu USD, trong đó lợi nhuận chuyển về nước là 118,42 triệu USD, chủ yếu từ các dự án của Viettel (thu hồi 128,53 triệu USD, lợi nhuận chuyển về nước là 70,51 triệu USD).

PVN thu hồi 110,6 triệu USD, lợi nhuận chuyển về nước là 45,4 triệu USD). 5 doanh nghiệp khác chuyển về nước 2,52 triệu USD và 21 doanh nghiệp không phát sinh số thu hồi/chuyển về nước trong năm 2020.

Lũy kế đến ngày 31/12/2020, theo Chính phủ, có 57/131 dự án đầu tư ra nước ngoài của 13/28 DN đã phát sinh thu hồi vốn đầu tư với tổng số vốn đã thu hồi lũy kế là 3.167,52 triệu USD (bao gồm lợi nhuận chuyển về nước là 1.458,98 triệu USD), bằng 47% tổng số vốn đã đầu tư ra nước ngoài.

PVN có số vốn đầu tư thu hồi lớn nhất, là 2.386,77 triệu USD (bằng 60% vốn đàu tư thực hiện). Viettel đứng thứ hai với 706,29 triệu USD (bằng 49% vốn đầu tư thực hiện). Tổng vốn đã thu hồi của 2 DN này chiếm 98% tổng số vốn đã thu hồi của các DNNN.

Phân tích tình hình tài chính và kết quả sản xuất kinh doanh của các dự án đầu tư ra nước ngoài trong năm 2020, Chính phủ chỉ ra, trong 121/131 dự án có báo cáo về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh thì 32 dự án không phát sinh doanh thu. 89 dự án có doanh thu với tổng doanh thu tại nước ngoài năm 2020 là 5.542,92 triệu USD, bằng 79% so với năm 2019.

Trong 89 dự án trên có 28 dự án lỗ với tổng số lỗ là 236,89 triệu USD (giảm 6 dự án lỗ nhưng số lỗ tăng 81 triệu USD và bằng 152% so với năm 2019). 61 dự án có lợi nhuận, với tổng lợi nhuận sau thuế là 426,66 triệu USD (giảm 138,34 triệu USD và bằng 75% so với năm 2019). Số lợi nhuận được chia trong năm của các nhà đầu tư Việt Nam là 118,76 triệu USD (giảm 87,543 triệu USD và bằng 58% so với năm 2019).

Đến cuối năm 2020, có 46 dự án còn lỗ lũy kế với tổng số lỗ lũy kế là 1.171,06 triệu USD (giảm 1 dự án và tăng 120 triệu USD so với năm 2019).

Từ thực tế đầu tư, Chính phủ thừa nhận, hoạt động đầu tư ra nước ngoài của DNNN và DN có vốn nhà nước chưa đạt được như kỳ vọng đầu tư.

Nguyên nhân, theo Chính phủ, ngoài các vấn đề về năng lực quản lý, quản trị rủi ro, năng lực dự báo thị trường, kinh nghiệm trong đầu tư ra nước ngoài, thì các chính sách đầu tư nước sở tại và đặc biệt là tác động của dịch bệnh Covid-19 cũng khiến cho tình hình hoạt động của các dự án bị ảnh hưởng tiêu cực hơn so với năm 2019.

Hiện tại, nhiều dự án tiếp tục gặp khó khăn, tiềm ẩn rủi ro, chưa có hiệu quả đầu tư như các dự án khai thác, thăm dò dầu khí, các dự án trồng và chế biến cây cao su.

Một số dự án viễn thông có số lỗ lũy kế lớn hoặc mất quyền kiểm soát và rủi ro tỷ giá và một số dự án không hiệu quả thuộc các lĩnh vực khác vẫn đang hoạt động hoặc dừng triển khai như Dự án khai thác muối mỏ Kali tại Lào, Dự án khai thác khoáng sản Steung Treng - Campuchia...

Bình luận (0)

Lên đầu trang