1. Công tác cảnh vệ thời kỳ tiền thân (1941 - 1953)
Giữa năm 1940, trước diễn biến mau lẹ của tình hình thế giới và phong trào cách mạng trong nước, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ thị cho tất cả cán bộ của Đảng ta đang hoạt động ở nước ngoài nhanh chóng trở về nước gấp rút chuẩn bị, tổ chức lực lượng chờ thời cơ giành chính quyền.
Bảo vệ Bác Hồ ký Hiệp định Việt Pháp (Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946)
Thực hiện sự chỉ đạo của Trung ương, ngày 28/01/1941, Ban Công tác đội đã cử tổ công tác sang Côn Minh (Trung Quốc) bảo vệ và đón lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Tổ công tác gồm các đồng chí Lê Quảng Ba, Đặng Văn Cáp, Hoàng Văn Lộc, Thế An… Đây là những chiến sĩ Cảnh vệ đầu tiên vinh dự được bảo vệ Bác Hồ. Tháng 5/1941, Ban Công tác đội đã phối hợp với Đội tự vệ, du kích địa phương bảo vệ an toàn Hội nghị Trung ương 8 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì tại Pác Bó. Sau đó, đã 03 lần bảo vệ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc sang Trung Quốc để gặp Đồng minh; lần thứ nhất vào tháng 8/1942; lần thứ hai vào cuối năm 1944, người bảo vệ là đồng chí Phùng Thế Tài; lần thứ ba vào đầu năm 1945, người bảo vệ là đồng chí Phùng Thế Tài và đồng chí Đinh Đại Toàn.
Để chỉ đạo cách mạng Việt Nam chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, tháng 5 năm 1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Pác Bó (Cao Bằng) chuyển về căn cứ Tân Trào (Tuyên Quang). Phương án bảo vệ lãnh tụ Hồ Chí Minh lúc này được tổ chức chặt chẽ hơn, lực lượng bảo vệ được chia ra làm nhiều tổ và nhiều vòng. Tổ bảo vệ trực tiếp gồm các đồng chí Đinh Đại Toàn, Văn Lâm, Trần Đình, Ngọc Hà… vinh dự thực hiện nhiệm vụ quan trọng này. Đồng chí Trần Đăng Ninh - Ủy viên Thường trực Ủy ban quân sự Bắc Kỳ (sau này là Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp (nay là Tổng cục Hậu cần, Quân đội nhân dân) được Trung ương giao trực tiếp chỉ đạo công tác bảo vệ lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí trong Thường vụ Trung ương.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển về Hà Nội. Công tác bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Tân Trào về Thủ đô đã được tiến hành theo phương án hết sức chặt chẽ và chia thành nhiều chặng, mỗi chặng đều có bộ phận tiền trạm đi trước để liên hệ và phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức công tác điều tra nắm tình hình và tiến hành bảo vệ. Về đến Hà Nội, địa điểm đầu tiên bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại nhà ông Công Ngọc Kha, thôn Phú Gia, xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm ở ngoại thành Hà Nội (nay là phường Phú Thượng, quận Tây Hồ).
Ngày 25/8/1945, Tổ bảo vệ đã đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh chuyển về số 48 phố Hàng Ngang - Hà Nội. Để bảo vệ địa điểm bí mật này, tổ bảo vệ đã phối hợp với lực lượng của Sở Liêm phóng Bắc Bộ do đồng chí Chu Đình Xương phụ trách. Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc ở tầng 2 ngôi nhà 48 Hàng Ngang. Lực lượng bảo vệ được phân công tại các vị trí thích hợp bên trong. Công tác chuẩn bị phương tiện đi lại cho Người do lực lượng điệp báo nội thành phụ trách.
Ngày 02/9/1945, Lễ mít tinh lịch sử được tổ chức tại Vườn hoa Ba Đình. Tại đây, Người đã đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bảo vệ tiếp cận Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi lễ là đồng chí Chu Đình Xương - Giám đốc Sở Liêm phóng Bắc Bộ và các đồng chí trong tổ bảo vệ phối hợp với các chiến sĩ thuộc đơn vị của đồng chí Đàm Quang Trung từ Chiến khu về.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các chiến sỹ Cảnh vệ dừng chân trên đường đi công tác ở chiến khu Việt Bắc, 10/1947
Trong thời gian cuối 1945 và năm 1946, vận mệnh đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. 20 vạn quân Tưởng với danh nghĩa quân Đồng Minh vào giải giáp vũ khí quân Nhật ồ ạt kéo vào miền Bắc nước ta cùng với bọn Việt quốc, Việt cách chống phá chính quyền cách mạng còn non trẻ. Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Lương Bằng - Ủy viên Ban Thường vụ kháng chiến (sau này là Phó Chủ tịch nước giai đoạn 1969 - 1979) được Trung ương giao nhiệm vụ phụ trách công tác bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Thường vụ Trung ương đã bố trí nhiều địa điểm bí mật ở nội thành và ngoại thành Hà Nội, kịp thời thay đổi địa điểm khi có yêu cầu. Mặc dù công tác bảo vệ gặp muôn vàn khó khăn, nhưng Tổ bảo vệ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo Trung ương, Chính phủ trở lại chiến khu Việt Bắc. Trên đường trở lại chiến khu, để thể hiện đường lối và ý chí kháng chiến của dân tộc ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, ngày 05/3/1947, tại xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ, Bác Hồ đã đặt tên cho 08 chiến sỹ Cảnh vệ là: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi. Đây là những chiến sĩ Cảnh vệ tiền bối vinh dự được Bác Hồ đặt tên, sau này đã trở thành các đồng chí lãnh đạo giữ những vị trí chủ chốt của các cơ quan, đơn vị đã đi vào lịch sử truyền thống của lực lượng Cảnh vệ CAND.
Với yêu cầu bảo vệ tuyệt đối an toàn khu và đập tan âm mưu xâm nhập ám sát, phá hoại của bọn gián điệp, cuối năm 1949, Nha Công an thành lập một Đại đội vũ trang với tên gọi Đại đội Độc lập (hay còn gọi là Đại đội Hoàng Hữu Nam, Đại đội 123) quân số khoảng 80 người được lựa chọn kỹ lý lịch và phẩm chất chính trị làm nhiệm vụ tuần tra, bảo vệ, chốt chặn các trạm ra vào khu căn cứ. Cũng vào thời gian này, lực lượng vũ trang chuyên trách bảo vệ Bác Hồ được thành lập, lấy tên là Tiểu đội AD và AT, sau đó phát triển thành Đại đội 32, Tiểu đoàn 600 (nay là Trung đoàn 600 - Bộ Tư lệnh Cảnh vệ). Ngoài việc bảo vệ tuyệt đối an toàn an toàn khu và Bác Hồ, công tác bảo vệ còn đảm bảo an toàn các chuyến đi trực tiếp chỉ đạo các chiến dịch của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Thường vụ Trung ương giai đoạn này.
Ngày 16/02/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 141/SL đổi Nha Công an thành Thứ bộ Công an. Theo Sắc lệnh, Cục Cảnh vệ được thành lập. Đây là mốc son đánh dấu sự ra đời và trưởng thành, đồng thời mở ra một chương mới của lực lượng Cảnh vệ, góp phần xứng đáng cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954) lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, ghi thêm một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc.
Bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh vượt sông đi chiến dịch Biên Giới, năm 1950
Ngay sau khi thành lập, trong bối cảnh đất nước có chiến tranh cùng nhiều khó khăn về mọi mặt, lực lượng Cảnh vệ đã được các chuyên gia Cảnh vệ Trung Quốc, tiếp đó là Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ xây dựng cơ sở vật chất, mở các khóa huấn luyện về nghiệp vụ, võ thuật, bắn súng. Sự hợp tác, giúp đỡ của chuyên gia cảnh vệ các nước xã hội chủ nghĩa đã mang lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao trình độ mọi mặt cho lực lượng Cảnh vệ Việt Nam. Đặc biệt, bạn đã cung cấp tài liệu và giúp ta xây dựng giáo trình nghiệp vụ công tác cảnh vệ. Tuy nhiên, nội dung các giáo trình còn sơ sài, chưa phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nước ta, Cục Cảnh vệ đã nghiên cứu biên soạn, chỉnh lý và tự xây dựng chương trình, nội dung sát với thực tế tình hình, đồng thời tổ chức mở các lớp đào tạo từng phần, từng bộ phận theo hướng vừa học, vừa bổ sung thêm kiến thức gắn với kinh nghiệm thực tiễn công tác bảo vệ.
2. Công tác cảnh vệ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, thực dân Pháp buộc phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ về Việt Nam. Theo Hiệp định, đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền Nam - Bắc. Trong bối cảnh đó, cán bộ, chiến sĩ Cảnh vệ đã cùng với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức thi đua thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tích cực chi viện và đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
2.1. Ở miền Bắc
Cục Cảnh vệ đã phối hợp với Công an các đơn vị địa phương, với các cấp, các ngành bảo vệ Bác Hồ, các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, bảo vệ các cơ quan đầu não Trung ương, Chính phủ, các cuộc mít tinh, hội nghị do Đảng, Nhà nước tổ chức, bảo vệ Đại sứ quán các nước và các đoàn chuyên gia của các nước xã hội chủ nghĩa sang giúp Việt Nam.
Cán bộ, chiến sĩ CAND miền Bắc lên đường chi viện cho An ninh Miền Nam, 1965
Ngày 20/11/1958, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 57/NQ-TW quy định về chế độ bảo vệ. Đây là văn bản đầu tiên của Trung ương Đảng quy định về công tác cảnh vệ, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với công tác cảnh vệ.
Ngày 7/02/1962, nhân dịp Hội nghị tổng kết công tác năm của Cục Cảnh vệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ lực lượng Cảnh vệ tại trụ sở của đơn vị, số 1 Lê Hồng Phong, Hà Nội. Người đã căn dặn:
“… Muốn bảo vệ thì người bảo vệ: Phải biết đánh địch; Phải biết võ giỏi; Phải khỏe; Phải bắn súng giỏi;
Muốn bảo vệ tốt: Phải có kỹ thuật; Phải giữ được bí mật và phải có thái độ tốt đối với đồng bào…”
Lời chỉ bảo ân cần của Bác, vị lãnh tụ vĩ đại, người cha muôn vàn kính yêu của dân tộc thật vô cùng quý báu đã được ghi vào truyền thống của lực lượng Cảnh vệ. cán bộ, chiến sĩ Cảnh vệ luôn lấy đó làm quan điểm, phương châm, biện pháp và yêu cầu công tác để phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, của Bác Hồ và Nhân dân giao phó.
Ngày 18/01/1964, Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 18 đã chỉ rõ: “Phải tăng cường công tác bảo vệ lãnh tụ, đảm bảo an toàn tuyệt đối trong tình hình bình thường cũng như khi có tình huống đột xuất xảy ra. Nghiên cứu, cải tiến hơn nữa các phương án bảo vệ, quan hệ giữa lực lượng Cảnh vệ với lực lượng vũ trang để vừa hợp lý về tổ chức, vừa tránh được sơ hở trong công tác”. Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng, của Ngành, cán bộ, chiến sĩ Cảnh vệ đã mang hết tinh thần trách nhiệm, trung thành tận tụy, vượt qua mưa bom, bão đạn, không quản hy sinh gian khổ để bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đối tượng cảnh vệ khác. Trong công tác đã xuất hiện nhiều tấm gương tiêu biểu, đó là đồng chí Nguyễn Thị Ngọc Đoàn dũng cảm lấy thân mình che chở cho nữ Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Vê-nê-zu-ê-la khi bị máy bay Mỹ đánh phá (năm 1966); đồng chí Trần Văn Nhỏ nêu cao tinh thần tận tụy phục vụ công tác, 09 năm liền đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua và được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân…
Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 180 ANVTMN đào địa đạo bảo vệ căn cứ Trung ương Cục
Đầu những năm 70 của thế kỷ XX, trước những thay đổi mau lẹ của tình hình, cùng với hoạt động của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước ta diễn ra rất khẩn trương, liên tục, không những ở trong nước mà còn sang thăm các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Đặc biệt là chuyến thăm Liên Xô và Trung Quốc vào cuối tháng 5, đầu tháng 6 năm 1973 do đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và đồng chí Phạm Văn Đồng - Thủ tướng Chính phủ dẫn đầu. Tuy vất vả, nặng nề, đầy khó khăn nhưng lực lượng Cảnh vệ vẫn đảm bảo an toàn, đáp ứng tốt yêu cầu chính trị và ngoại giao.
Sau Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, đế quốc Mỹ buộc phải đàm phán với Việt Nam tại Hội nghị Pa-ri (Pháp). Thực hiện sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an, Cục Cảnh vệ được phân công bảo vệ 02 phái đoàn dự Hội nghị Pa-ri (Đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam). Hội nghị kéo dài gần 5 năm, trải qua 201 phiên họp công khai, 45 phiên họp bí mật, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và hàng trăm cuộc gặp gỡ chính khách, lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp, Việt kiều và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới. Dù công tác bảo vệ các phái đoàn Việt Nam được tiến hành tại nước Pháp, có rất nhiều khó khăn, nhưng được sự chỉ đạo thường xuyên của lãnh đạo Bộ Nội vụ mà trực tiếp là Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn; cùng các đồng chí trong phái đoàn đàm phán; sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp, Việt kiều và nhân dân yêu chuộng hòa bình tại Pháp; sự hợp tác của lực lượng Cảnh sát và An ninh Pháp, cán bộ, chiến sĩ Cục Cảnh vệ đã bảo vệ tuyệt đối an toàn 02 phái đoàn đàm phán, bảo vệ tốt các tài liệu bí mật, các kế hoạch đấu tranh trên bàn đàm phán, đảm bảo bí mật nội dung thông tin liên lạc của ta ở Pa-ri và Hà Nội, góp phần quan trọng vào thành công Hội nghị.
Với thắng lợi vang dội của trận "Điện Biên Phủ trên không" (tháng 12 năm 1972), ngày 27/01/1973, đế quốc Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Pa-ri về Việt Nam.
2.2. Ở miền Nam
Bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, 20/3/1961
Sau năm 1954, Mỹ hậu thuẫn cho chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp cách mạng Việt Nam với âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Do tính chất phức tạp của cuộc chiến tranh nên yêu cầu bảo vệ an toàn Xứ uỷ Nam Bộ (sau này là Trung ương Cục) đặt ra cho công tác cảnh vệ ở miền Nam vô cùng nặng nề. Trước tình hình đó, ngày 18/10/1956, Xứ uỷ Nam Bộ đã quyết định thành lập đơn vị bảo vệ, phiên hiệu là C80 - An ninh vũ trang (sau này đổi tên là Đoàn 180 - tiền thân của Phòng Bảo vệ 180, nay là Phòng Cảnh vệ miền Nam - Bộ Tư lệnh Cảnh vệ) có nhiệm vụ bảo vệ các đồng chí lãnh đạo Trung ương Cục và căn cứ địa cách mạng.
Nhằm tăng cường cho cách mạng miền Nam, thực hiện sự chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Công an, đầu năm 1969, Cục Cảnh vệ đã cử đồng chí Hồ Văn Đại - Cục phó vào chiến trường B và được bổ sung vào Đoàn 1 (Ban An ninh Trung ương Cục) làm Trưởng ban Bảo vệ nội bộ, có nhiệm vụ bảo vệ cấp ủy, lãnh đạo chủ chốt của Trung ương Cục. Cuối năm 1969, đồng chí Phạm Bạn, đồng chí Dương Văn Hà - Cục Cảnh vệ được giao trọng trách và đã bảo vệ tuyệt đối an toàn đồng chí Hai Xô (Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục) vào căn cứ Trung ương Cục tại Tây Ninh.
Trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, Đoàn 180 đã cùng với cơ quan, đơn vị liên quan tổ chức 23 lần di chuyển cơ quan, bảo vệ an toàn 1.277 lượt các đồng chí lãnh đạo đi công tác đường xa, bảo vệ và phục vụ hàng trăm hội nghị lớn nhỏ tại khu căn cứ. Đơn vị đã xây dựng được 46 căn cứ và hàng trăm căn nhà, đào hàng trăm căn hầm kiên cố và hàng nghìn mét giao thông hào. Để bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo và cơ quan đầu não Trung ương Cục, cán bộ, chiến sĩ đơn vị đã tham gia chiến đấu 413 trận lớn nhỏ. Tiêu diệt và làm bị thương 4.720 tên địch trong đó có 737 tên Mỹ, 12 lính Pắc Chung Hy, bắn rơi 29 máy bay lên thẳng, 1 máy bay AĐ6, bắn cháy và phá hủy 76 xe tăng, xe bọc thép và nhiều xe quân sự khác. Thu 2.321 khẩu súng các loại, trên 15 tấn đạn dược và 70 máy vô tuyến điện cùng nhiều tài liệu và đồ dùng quân dụng của địch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các chiến sỹ Cảnh vệ tập võ tại căn cứ Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp
Thành tích to lớn trên của cán bộ, chiến sĩ Đoàn 180 - An ninh vũ trang (nay là Phòng Bảo vệ 180 - Bộ Tư lệnh Cảnh vệ) đã góp phần vào thành tích chung của lực lượng CAND, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong chiến đấu và bảo vệ đã có biết bao tấm gương hy sinh anh dũng, tận tụy quên mình để bảo vệ an toàn các đồng chí lãnh đạo và khu căn cứ, tiêu biểu là Anh hùng, liệt sỹ Phạm Thành Lượng, Anh hùng Đoàn Phước Truyền, Anh hùng Trần Văn Năm, Anh hùng Ngô Thanh Nguyên cùng gần 500 cán bộ, chiến sĩ ưu tú đã anh dũng hy sinh hiến dâng tuổi thanh xuân của mình vì sự nghiệp vẻ vang của dân tộc, máu đào của các anh đã tô thắm thêm lá cờ truyền thống của lực lượng Cảnh vệ CAND.
(Còn tiếp...)