Dấu ấn Phật giáo đồng hành cùng dân tộc:

Bài 5: Hòa thượng Thích Thế Long - ngọn lửa từ bi soi đường giữa đêm trường giặc giã

Thứ Bảy, 10/05/2025 15:06

|

(CATP) Trên hành trình vinh quang nhưng đầy gian khó của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bên cạnh những người con ưu tú khoác áo lính hoặc là công nhân, nông dân, chúng ta không thể không nhắc đến các bậc chân tu, những người con của Phật đã sẵn sàng "cởi áo cà sa, khoác chiến bào", đem thân mình hòa vào dòng chảy Cách mạng. Họ đã thể hiện trọn vẹn tinh thần "Đạo pháp, dân tộc" và chân lý "Việc đạo không rời việc đời", "Đạo pháp bất ly thế gian giác". Trong số này, Hòa thượng Thích Thế Long nổi lên như tấm gương sáng, biểu tượng về tinh thần yêu nước, nhập thế của Phật giáo Việt Nam, với những hy sinh thầm lặng nhưng vô cùng cao cả.

Từ chân lý "việc đạo không rời việc đời"...

Hòa thượng Thích Thế Long, thế danh Phạm Thế Long, sinh năm 1909 tại xã Hải Anh, huyện Hải Hậu, Nam Định trong một gia đình Nho giáo thanh bạch, có truyền thống tin sâu Phật pháp. Cụ thân sinh Phạm Văn Ngoan sau khi sinh ngài cũng đã xuất gia tu hành với pháp danh Thích Thanh Cát tại chùa Nội, thị trấn Cổ Lễ. Hai chị gái của ngài cũng nối gót cha và em trai bước vào cửa Phật. Điều này cho thấy ngài được nuôi dưỡng trong môi trường mà việc tu hành, dấn thân vì đạo đã ăn sâu vào nếp nhà, là nền tảng vững chắc cho ý chí phụng sự đạo và đời của ngài sau này.

Với chí nguyện xuất trần thượng sĩ, ngài dốc lòng tu học, trở thành bậc chân tu uyên thâm Phật pháp. Tại chùa Cổ Lễ, ngài gánh vác trọng trách trụ trì, viện chủ, tận tâm với việc hoằng dương Phật pháp. Suốt hơn nửa thế kỷ, chùa Cổ Lễ dưới sự dẫn dắt của ngài luôn là trường hạ quan trọng của tăng ni phía Nam tỉnh Nam Hà/Nam Định, nơi ngài làm đường chủ, chủ giảng, Hòa thượng Ðàn đầu, Hòa thượng A Xà Lê, tận tâm trông nom để chư tăng ni an tâm tu học. Ngài luôn giữ gìn mạng mạch Phật pháp, thậm chí trong giai đoạn khó khăn, khi việc truyền giới gặp trở ngại, ngài vẫn tìm mọi cách để các đệ tử có thể thụ giới, thể hiện quyết tâm đào tạo người kế nghiệp để Phật giáo không bị hủy diệt. Đó là sự hy sinh thầm lặng vì sự tồn vong của đạo pháp.

Khi quê hương rơi vào vòng nô lệ, nhân dân lầm than, cơ cực, tiếng chuông chùa hòa giữa tiếng súng đạn, lời kinh nguyện chan cùng nỗi đau mất nước. Nhận thức sâu sắc rằng "Nước còn thì đạo còn, nay nước lâm nguy thì đạo cũng lâm nguy, phải giữ lấy nước thì mới giữ được đạo", tinh thần yêu nước sục sôi trong lòng các bậc chân tu. Hòa thượng Thích Thế Long với chân lý "việc đạo không rời việc đời" đã hòa mình vào phong trào quần chúng kháng Nhật, đuổi Tây, giành lại chính quyền. Ngài đã nhiều lần tháp tùng đi thuyết pháp, vận động nhân dân ủng hộ Việt minh, nuôi giấu cán bộ, bảo vệ cơ sở Cách mạng.

Hòa thượng Thích Thế Long

Trong bối cảnh đất nước sục sôi khí thế kháng chiến chống Pháp, tại Tổ đình Mỹ Lộc (liên quan đến khu vực Nam Định), một sự kiện lịch sử trọng đại đã diễn ra dưới sự chủ trì của Hòa thượng Thích Thế Long, thể hiện rõ nét tinh thần nhập thế của Phật giáo. Trước nguyện vọng cháy bỏng của các tăng ni muốn trực tiếp ra chiến trường đánh giặc, được đề xuất bởi Đại đức Thích Pháp Lữ (sau là Đại tá Đinh Thế Hinh) và Đại đức Thích Trí Không, Hòa thượng Thích Thế Long đã đồng ý cử hành lễ "giải pháp y", thành lập Đội nghĩa sĩ phật tử. Ngài nhấn mạnh: "Giặc ngoại xâm đe dọa chủ quyền đất nước, Phật pháp bất ly thế gian pháp. Khi sơn hà nguy biến, dân chúng điêu linh, các phật tử tham gia đánh giặc cứu nước là đạo lý thiền tông...".

Buổi lễ "Tam bảo", "Tứ ân" diễn ra trong không khí trang nghiêm nhưng đầy xúc động. Khoảnh khắc Hòa thượng Thích Thế Long đỡ các tấm áo cà sa đặt trước bàn thờ Phật là hình ảnh đầy ý nghĩa, biểu trưng cho sự tạm gác lại đời sống tu hành cá nhân vì nghĩa lớn dân tộc. Sau lời hô vang của sư Tường Minh, 27 nhà sư đã đồng loạt đội mũ có gắn sao vàng lên đầu, chính thức trở thành 27 chiến sĩ Vệ quốc đoàn. Họ cởi bỏ áo cà sa thanh tịnh, khoác lên mình chiến bào người lính. Biểu ngữ "Lễ cởi áo cà sa khoác lên chiến bào" không chỉ là khẩu hiệu mà là sự hòa quyện thiêng liêng giữa lý tưởng giải thoát và trách nhiệm công dân. Lời phát nguyện "Tuốt gươm, bồng súng diệt binh đao/Ra đi quyết rửa thù cứu nước/Vì nghĩa quên thân, hiến máu đào" vang vọng, tiếp thêm sức mạnh cho đoàn quân đặc biệt ấy. Ngay trước khi lên đường, hòa thượng còn cho người đem giấu quả chuông 9 tấn của chùa Cổ Lễ xuống ao sen - hành động vừa bảo vệ báu vật của chùa vừa thể hiện sự dấn thân dứt khoát vào cuộc chiến.

... Đến tinh thần "Hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc"

Đoàn Nghĩa sĩ phật tử đã cùng đơn vị Vệ quốc đoàn ra trận, chiến đấu dũng cảm, cố thủ ở cao điểm Non Nước (Ninh Bình) và bảo vệ TP. Nam Định. Họ đã lập công xuất sắc, nhưng cuộc chiến tàn khốc cũng không tránh khỏi sự hy sinh. Nguồn tư liệu ghi nhận 12 vị đã anh dũng ngã xuống trong đơn vị này, trở thành những liệt sĩ pháp danh. Tại chùa Cổ Lễ cũng có 5 nhà sư hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, được Nhà nước truy tặng danh hiệu liệt sĩ. Sự hy sinh của các ngài và những người con Phật khác đã tô thắm thêm truyền thống "Hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc" của Phật giáo Việt Nam. Dưới sự dẫn dắt và động viên của Hòa thượng Thích Thế Long, nhiều đệ tử của ngài tại chùa Cổ Lễ đã nhập ngũ, có người trở thành sĩ quan cao cấp trong Quân đội Nhân dân Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ và suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Hòa thượng Thích Thế Long vẫn không ngừng cống hiến. Ngài tích cực tham gia các phong trào yêu nước, hiến gần 50 mẫu ruộng của chùa cho Nhà nước, cùng tăng ni phật tử chùa Cổ Lễ tích cực tham gia công tác xã hội, xóa đói giảm nghèo, cứu trợ nhân đạo, xây nhà từ thiện. Trên cương vị quan trọng trong Giáo hội và Nhà nước như Phó Chủ tịch Quốc hội khóa VII, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, ngài đã có những đóng góp to lớn để thúc đẩy sự nghiệp chung. Ngài là tấm gương tiêu biểu cho tinh thần "chăm việc đạo, lo việc đời".

Chùa Cổ Lễ ở Nam Định (ảnh sưu tầm)

Ghi nhận những đóng góp to lớn cho đạo và đời, cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, dựng xây đất nước, Đảng và Nhà nước đã trao tặng Hòa thượng Thích Thế Long nhiều phần thưởng cao quý, như: Huân chương Vì hòa bình, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất cùng nhiều bằng khen, giấy khen. Sự vinh danh này không chỉ dành cho cá nhân ngài mà còn là sự trân trọng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân đối với những đóng góp to lớn của Phật giáo Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc.

Nhìn lại cuộc đời và sự nghiệp của Hòa thượng Thích Thế Long, chúng ta càng thêm kính phục và tri ân. Ngài không chỉ là bậc tôn túc uyên thâm Phật pháp mà còn là một chiến sĩ Cách mạng kiên trung, yêu nước nồng nàn. Sự hy sinh, dấn thân của ngài và biết bao tăng ni phật tử khác là minh chứng hùng hồn về tinh thần yêu nước, đồng hành cùng dân tộc đã ăn sâu vào mạch nguồn Phật giáo Việt Nam, trở thành một phần không thể tách rời của bản sắc dân tộc.

Ngày nay, khi đất nước đã hòa bình, độc lập, nhìn về những trang sử vẻ vang, chúng ta càng thấu hiểu hơn giá trị của sự hy sinh thầm lặng và cao cả ấy. Công lao của Hòa thượng Thích Thế Long và các chư vị tu sĩ đã xả thân vì nước là vô giá. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh còn rất nhiều thông tin, tư liệu về các chư vị tu sĩ có công với Cách mạng vẫn chưa được thu thập đầy đủ. Để tri ân và ghi nhận một cách toàn diện những đóng góp quý báu này, Thượng tọa - Tiến sĩ Thích Thanh Phương và Tiến sĩ Bùi Hữu Dược đang biên soạn một công trình sách đầy ý nghĩa nhằm lưu giữ và lan tỏa những tấm gương sáng về tinh thần "Đạo pháp - Dân tộc". Chúng tôi tha thiết kêu gọi quý độc giả, quý tăng ni, phật tử, các nhà nghiên cứu, những người từng là chiến sĩ, người thân của các nhà sư tham gia kháng chiến và toàn thể Nhân dân biết về những gương hy sinh, những câu chuyện cảm động, những tư liệu quý (như hình ảnh, kỷ vật, bút tích, tài liệu liên quan) về các chư vị tu sĩ có công với Cách mạng xin vui lòng cung cấp thông tin. Sự sẻ chia của quý vị chính là nguồn tư liệu quý báu góp phần hoàn thiện công trình này, để hậu thế mai sau luôn khắc ghi và noi theo tinh thần yêu nước cao cả của thế hệ cha ông. Mọi thông tin xin vui lòng gửi về Tòa soạn Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh hoặc Phó chủ biên Trần Ngọc Thoan, điện thoại 096.536.2819, email tranngocthoan@gmail.com.

Bài 4: Ngọn lửa tự thiêu chống cường quyền của Đại đức Thích Quảng Hương
 

Bình luận (0)

Lên đầu trang