Đại đức Thích Giác Lượng, tên thật Ngô Sáu (còn gọi là thầy Sáu), sinh ra và lớn lên giữa lúc đất nước bị thực dân, đế quốc giày xéo. Gia đình ông cũng chịu sự khủng bố ác liệt từ chính quyền Ngô Đình Diệm sau Hiệp định Giơnevơ. Nhờ sự giúp đỡ của nhà chùa (theo một nguồn là Hòa thượng Thích Hưng Từ, nguồn khác chỉ chung chung là các nhà sư), ông được vào học tại Đại học Phật giáo Vạn Hạnh ở Sài Gòn. Đây là môi trường thuận lợi để ông tiếp xúc với nhiều nhà sư bậc thầy, nhân sĩ trí thức, sinh viên và phật tử. Không chỉ được truyền đạt kiến thức Phật pháp, sinh viên Ngô Sáu còn được giáo dục sâu sắc về lòng yêu nước, thương dân, căm thù giặc ngoại xâm và tay sai bán nước. Nhờ đó, ông đã trở thành một trong những sinh viên tích cực tham gia các cuộc đấu tranh xuống đường chống áp bức của chính quyền tay sai Mỹ - Diệm. Sau một thời gian tu luyện, ông được phong Đại đức pháp sư với pháp danh Thích Giác Lượng.
Trở về quê nhà Phú Yên, ông tu hành và trụ trì tại chùa Hồ Sơn, xã Bình Kiến (nay là thôn Ninh Tịnh, Phường 9), TP. Tuy Hòa, vùng đất có truyền thống yêu nước, chống giặc. Sống tại đây, ông càng nhận rõ bộ mặt phản nước, hại dân của chế độ gia đình trị họ Ngô. Do có mối quan hệ thân thiết với bà con Phật giáo ở Bình Định, Đại đức quyết định đến xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định phát nguyện công đức lập chùa An Hòa.
Với tư cách là một đại đức pháp sư, ông luôn trăn trở về đạo và đời, về nhân dân và Tổ quốc. Chính quyền xã Mỹ Chánh và huyện Phù Mỹ đã tìm mọi cách ngăn cản tín đồ đến lễ Phật đồng thời gây khó khăn cho ông. Địch thấy đồng bào ngưỡng mộ ông, tìm đến chùa nghe ông lấy việc đời để hướng đạo, giúp họ nhận diện đâu là chính, đâu là tà từ hành động ngang ngược của chính quyền và bọn ác ôn, có lúc chính quyền Sài Gòn còn đặt chùa An Hòa vào vùng được "tự do pháo kích". Dù vậy, tín đồ vẫn kiên cường đi lại cúng lễ như thường. Đại đức Thích Giác Lượng đã dùng sự thật trước mắt để giúp đạo hữu nhận rõ bản chất kẻ thù.

Đại đức Thích Giác Lượng
Năm 1964, hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Đại đức Thích Giác Lượng dù tuổi còn trẻ đã tạm biệt tăng ni, phật tử và ngôi chùa mình sáng lập để lên chiến khu tham gia kháng chiến. Ông là người ưu thời mẫn thế, luôn trăn trở trước thời cuộc và mong muốn đóng góp sức mình cho độc lập, tự do của dân tộc. Là một nhà tu hành, ông đã để lại tiếng nói sâu sắc trong quyển Thử đặt một hướng đi. Cuốn sách non trăm trang này chứa đựng tấm lòng yêu nước, thương dân, nguyện vọng tha thiết về một xứ sở thanh bình. Ông đã thử vẽ ra nét đại cương về đạo Phật và văn hóa dân tộc, sự bình đẳng trong nghề nghiệp và tự do cho nhân dân. Đây là minh chứng cho việc ông đã đem hết tâm lực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ngay cả qua ngòi bút.
Là một thanh niên trong thời loạn, Đại đức Thích Giác Lượng đã trực tiếp tham gia kháng chiến. Để góp phần thực hiện Cương lĩnh của Mặt trận, Đại đức đã đến nhiều thôn xã ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, vào tận những vùng "da báo" sát nách địch. Ông giảng giải cho người dân hiểu biết, thực hiện chính sách, chủ trương của Mặt trận. Đặc biệt, ông kêu gọi con em "phía bên kia" làm điều lành, tránh điều dữ, tạo ra "nhân lành" để đời hưởng "quả phúc". Uy tín của ông lan tỏa từ vùng giải phóng đến khu địch kiểm soát, vào tận các thành phố, thị xã. Nhiều đạo hữu, nhất là thanh niên phật tử, đã lặn lội vượt qua vòng kìm kẹp của địch, đến vùng giải phóng vấn an, thỉnh giáo Đại đức đồng thời tình nguyện lên căn cứ tham gia kháng chiến.
Ban đầu, một số người ở vùng giải phóng lần đầu nghe ông thuyết pháp đã hoài nghi, cho rằng "làm gì ở nơi núi rừng xa thẳm lại có nhà sư đi làm Cách mạng, chắc là mấy ông Mặt trận cử cán bộ lấy danh nghĩa nhà sư đấy thôi". Nhưng khi gặp và nghe ông thuyết pháp, họ mới thấy ông là nhà sư chân chính, uyên thâm. Nhiều người đã nhận rõ những luận điệu xuyên tạc của bọn phản động đội lốt tôn giáo, đông đảo thanh niên phật tử hiểu rõ và hướng về đường lối, chính sách đại đoàn kết của Mặt trận.
Trong suốt hơn 3 năm trên chiến khu, Đại đức Thích Giác Lượng đã đến nói chuyện, thuyết pháp cho hàng nghìn người nghe, đóng góp rất nhiều công sức cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Việc ông lên đường đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào "5 xung phong", thu hút hàng vạn nam nữ thanh niên, học sinh, sinh viên phật tử trong các vùng địch kiểm soát thoát ly gia nhập Bộ đội giải phóng và Thanh niên xung phong (TNXP) giải phóng. Với uy tín của mình, ông được tín nhiệm bầu làm Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Trung, Chủ tịch danh dự của Hội Liên hiệp Thanh niên - Học sinh - Sinh viên và TNXP giải phóng Khu 5.
Trong hoàn cảnh sinh hoạt hàng ngày ở chiến khu còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, Mặt trận chủ trương dành cho các nhân sĩ, trí thức một số ưu đãi vật chất dù ít ỏi. Tuy nhiên, Đại đức Thích Giác Lượng đã từ chối, ông thậm chí còn nhường một phần suất ăn của mình cho cán bộ, nhân viên ốm đau. Ông thường bày tỏ: "Tôi đi làm Cách mạng là vì đời và cũng vì đạo". Ông khẳng định đã phát nguyện làm người tu hành thì suốt đời phải giữ giới hạnh để cùng đạo hữu góp phần phụng sự Cách mạng, giải phóng dân tộc, kháng chiến cứu nước, mong sớm đến ngày nước nhà thống nhất để đồng bào miền Nam được đón Bác Hồ vào thăm. Sự chay tịnh và giới hạnh của người tu hành luôn được ông giữ vững.

Chùa Hồ Sơn
Tấm gương của Đại đức Thích Giác Lượng có sức ảnh hưởng lớn lao, thậm chí làm thay đổi nhận thức của những người ở phía bên kia chiến tuyến. Câu chuyện về Bô By, sĩ quan trong đội quân xâm lược, là một minh chứng. Nhờ được sống, chiến đấu cùng các chiến sĩ TNXP Việt Nam và chứng kiến những phẩm chất cao đẹp, trong đó có sự dẫn dắt của Đại đức Thích Giác Lượng ở cương vị Chủ tịch danh dự Hội Liên hiệp Thanh niên - Học sinh - Sinh viên và TNXP giải phóng Khu 5, Bô By đã từ kẻ thù trở thành chiến sĩ kiên cường của Cách mạng Việt Nam. Những điều tai nghe, mắt thấy ở Đại đức Thích Giác Lượng mỗi ngày đã "thấm sâu vào tâm khảm", biến Bô By thành người chiến đấu vì Cách mạng Việt Nam, nguyện trung thành với lý tưởng do Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường.
Đại đức Thích Giác Lượng đã nêu tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, tinh thần phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hết lòng vì đạo, vì đời. Sự hy sinh thầm lặng và cao cả của ông là một phần máu thịt trong dòng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Gia đình ông cũng có nhiều đóng góp và hy sinh to lớn cho độc lập, thống nhất nước nhà. Hai người anh trai của ông đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Mẹ của Đại đức Thích Giác Lượng đã được truy phong là Mẹ Việt Nam Anh hùng vì có ba người con trai hy sinh cho Tổ quốc.
Ngày nay, Đại đức Thích Giác Lượng được Nhà nước truy tặng danh hiệu Liệt sĩ, Đại đức Pháp sư. Tấm gương của ông và nhiều tu sĩ khác trong cuộc kháng chiến là minh chứng cao đẹp về "Đạo pháp, dân tộc, chủ nghĩa xã hội" của Phật giáo Việt Nam. Tất cả là biểu tượng của tinh thần kiên cường, bất khuất, trung dũng, quyết thắng của nhân dân Việt Nam. Ngày đất nước hòa bình, thống nhất, nhân dân được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc, sự hy sinh của những nhà sư liệt sĩ như Đại đức Thích Giác Lượng vẫn là tấm gương sáng cho các thế hệ noi theo. Chùa Hồ Sơn, nơi ông từng tu hành và trụ trì, nay có đặt bàn thờ ông, là một địa chỉ ghi nhớ công lao của người tu sĩ yêu nước.
Tấm gương Đại đức Thích Giác Lượng chỉ là một trong muôn vàn những đóa hoa đã "hiến dâng thân mình vì nền độc lập dân tộc và hạnh phúc nhân dân". Những câu chuyện về các tu sĩ, phật tử tham gia kháng chiến, nuôi giấu cán bộ, hy sinh anh dũng đã tô thắm thêm truyền thống "Hộ quốc an dân đồng hành cùng dân tộc" của Phật giáo Việt Nam. Từ việc "cởi áo cà sa khoác áo chiến bào" đến việc nhà chùa trở thành căn cứ Cách mạng, đào hầm bí mật che chở cán bộ, vận động nhân dân ủng hộ kháng chiến, hay chịu tra tấn tàn khốc vẫn giữ vững khí tiết Cách mạng, mỗi câu chuyện đều là bài học sâu sắc về lòng yêu nước, sự hòa quyện giữa Đạo và Đời.
Công lao của các bậc tu sĩ yêu nước, trong đó có Đại đức Thích Giác Lượng, xứng đáng được ghi nhớ, tôn vinh. Đảng và Nhà nước đã kịp thời truy tặng danh hiệu liệt sĩ và các huân, huy chương cao quý cho nhiều người, tuy nhiên vẫn còn nhiều câu chuyện, nhiều tấm gương thầm lặng chưa được biết đến hoặc chưa được làm sáng tỏ.
Hiện nay, Thượng tọa - Tiến sĩ Thích Thanh Phương và Tiến sĩ Bùi Hữu Dược đang nỗ lực thực hiện công trình sách tri ân chư vị tu sĩ Phật giáo có công với Cách mạng. Đây là một việc làm hết sức ý nghĩa, góp phần bảo tồn và lan tỏa những giá trị lịch sử, văn hóa, Cách mạng của Phật giáo Việt Nam đến các thế hệ mai sau. Để công trình này được hoàn thiện một cách đầy đủ và trang trọng nhất, rất cần sự chung tay của toàn xã hội.
Kính mong quý độc giả, đặc biệt là các vị lão thành Cách mạng, thân nhân các gia đình có công, quý tăng ni, phật tử và nhân dân nếu có thông tin, tư liệu quý về các tu sĩ Phật giáo đã có những đóng góp, hy sinh trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc vui lòng liên hệ, cung cấp cho Thượng tọa - Tiến sĩ Thích Thanh Phương và Tiến sĩ Bùi Hữu Dược. Mỗi mẩu chuyện nhỏ, mỗi hình ảnh, mỗi kỷ vật đều là những viên gạch quý xây đắp nên pho sử hào hùng của Phật giáo Việt Nam đồng hành cùng dân tộc.
(CATP) Trong những câu chuyện xúc động về công đức của các tu sĩ Phật giáo đã hy sinh thầm lặng vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân được Tiến sĩ Bùi Hữu Dược - nguyên Vụ trưởng Vụ Phật giáo, Ban Tôn giáo Chính phủ, người nhiều năm gắn bó với công tác tôn giáo, đặc biệt là Phật giáo đã dày công sưu tầm, tìm hiểu và lưu giữ - có hai nhân vật đặc biệt, hai tấm gương sáng ngời của tinh thần yêu nước dưới màu áo nâu sồng: Hòa thượng Thích Thanh Điều tại chùa Vua và Sư Kiều ở chùa Phúc Khánh, Sóc Sơn (hai ngôi chùa đều ở Hà Nội).
Tiến sĩ - Thượng tọa Thích Thanh Phương (trụ trì chùa Sủi - Giám đốc Văn phòng Bảo tồn Di sản Phật giáo chùa Sủi - Chủ nhiệm CLB Di sản và Văn hóa Á Đông)