1- Sau những cuộc tiếp xúc với giới "đi địu" tìm trầm và doanh nhân trải nghiệm trong mua bán trầm hương, kỳ nam nói về sản vật ở đại ngàn, chúng tôi được biết trầm kết tụ trong thân cây dó giữa rừng sâu núi thẳm, không dễ gì tìm thấy. Cây dó bầu có tên khoa học là Aquilaria agallocha, hương thơm dịu nhẹ, giá trị cao. Cây dó lưỡi trâu và cây dó gạch, còn gọi là dó niệt có tên Aquilaria malaccensis, mùi thơm nồng, hắc, giá trị thấp. Giới "đi địu" và thương nhân gọi tên chung hai loại trầm hương và kỳ nam là trầm kỳ. Thời xưa, sản vật này được xếp bên cạnh ngà voi, sừng tê giác, ngọc trai, yến sào, chim sâm cầm... nên các vị vua nhà Nguyễn cho khắc hình tượng trầm hương, kỳ nam trên Cao đỉnh và Nhân đỉnh nằm trong Cửu đỉnh tại Thế miếu Hoàng thành Huế.
Theo các chuyên gia lâm đặc sản, trầm hương có 4 loại: kiến, rễ, tốc, mắt tử. Trầm kiến có lỗ, có hang do kiến đục lõi cây dó để làm tổ trước khi kết tụ thành trầm; trầm rễ sinh ra từ rễ cây dó; trầm tốc kết tụ trong lõi cây dó và trầm mắt tử tạo ra trên nhánh cây. Đặc trưng chung của trầm hương là cứng, nặng, thơm nhẹ, sắc nhạt, có vị đắng và cay, khi đốt khói trắng kết xoáy, tan nhanh. Trầm tốc có nhiều nhất và được phân loại nhiều thứ cấp với giá bán khác nhau như tốc hoa có màu vàng nhạt, lốm đốm chấm hoa; tốc nước cũng màu vàng nhạt nhưng nặng, bề ngoài trông ẩm ướt; tốc xám có màu xám tro; tốc lọ nghẹ có màu đen như bồ hóng và nặng; tốc đá nặng hơn và có hình thù như đá; tóc ớt có màu vàng nhạt, vị cay như ớt; tốc hương có mùi thơm đậm đà.

Công an xã Vạn Thắng tìm hiểu một tác phẩm nghệ thuật kết nối từ những khối trầm hương
Kỳ nam cũng được phân cấp 4 loại: "nhất bạch, nhị thanh, tam huỳnh, tứ hắc". Đặc trưng chung kỳ nam thì mềm, nhẹ, nhiều tinh dầu, thơm mát, có vị chua, cay, ngọt, đắng, khi đốt khói lam xanh bay lên thẳng, chậm tan. Kỳ bạch có màu trắng ngà, chất mềm và có mùi dầu; kỳ thanh có màu xanh biếc, nhiều dầu thì mềm, ít dầu thì cứng; kỳ huỳnh có màu vàng như sáp ong, chất cứng và nặng; kỳ hắc có màu đen bóng.
Theo y học cổ truyền, trầm kỳ tác dụng 3 kinh tỳ - vị - thận, giáng khí, ôn trung, tráng nguyên dương, giảm đau, an thần; điều trị một số bệnh trúng phong, cấm khẩu, chứng chướng gây khó thở, hen suyễn, nấc kéo dài, trợ tim, lợi tiêu hóa, chống nôn, trị tiêu chảy, thổ tả, ho đờm... Bên cạnh đó còn được xông, đốt trừ tà khí, tạo hương thơm trong các nghi lễ cúng tế, chế tác nhiều sản phẩm phong thủy, mỹ nghệ, trang sức, bột gỗ cây dó dùng làm nhang...
Trong "Phủ biên tạp lục - 1776", nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) ghi rằng: "Hương ấy là do ruột cây dó kết thành. Dó có 3 loại: dó lưỡi trâu là khổ trầm, dó niệt là trầm hương, dó bầu là kỳ nam hương. Người ta thấy cây già, lá vàng mà nhỏ, thân nhiều u bướu thì biết ngay là có hương, chặt mổ để lấy". Giới "đi địu" nghiệm rằng, trên thân cây dó có u nần, lồi lõm, vỏ cây khô nứt, nổi lên những chấm màu tím, đỏ, nâu là dấu hiệu có trầm kỳ.
Nhiều nhà nghiên cứu cho hay, trầm là sản phẩm do bệnh lý cộng sinh tế bào gỗ dó tạo thành, liên quan cấu trúc di truyền loài cây, độ tuổi, thời tiết, thổ nhưỡng... Theo giới "đi địu", có 3 căn nguyên tạo trầm. Đó là dấu vết tác động của thiên nhiên trên thân cây sau giông bão, sấm sét; tác động của con người từ mảnh bom đạn chiến tranh, vết chặt bằng rìu rựa và tác động của sinh vật đục khoét. Sau hàng chục năm, vết thương trên thân cây dó tiết ra nhựa sống bảo vệ và hấp thụ dần những yếu tố sinh thái, môi trường để rồi một phần thân gỗ hóa trầm với hình dạng lạ lẫm. Có lẽ vì thế nên dân gian có câu: "Đau thương dó hóa thành trầm".

Ông Đặng Văn Sơn (trái) kể về một thời "đi địu" tìm trầm
Thời xưa, dó bầu sinh trưởng tự nhiên rất nhiều trong rừng già ở Khánh Hòa. Cũng trong "Phủ biên tạp lục - 1776", ghi nhận: "Kỳ nam hương xuất tự đầu núi các xã thuộc 2 phủ Bình Khang và Diên Khánh là thứ tốt nhất, xuất tự Phú Yên và Quy Nhơn là thứ hai". Địa danh Bình Khang, Diên Khánh thời xưa thuộc tỉnh Khánh Hòa sau này. Trong "Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn (1865-1875) có nói về nguồn trầm kỳ ở Khánh Hòa: "Vùng núi các huyện đều có kỳ nam, trầm hương. Dân xã An Thành, huyện Tân Định hàng năm đi kiếm để nạp, năm nào không có kỳ nam phải nạp thay bằng trầm hương".
Nơi có nhiều trầm hương nhất ở Khánh Hòa thời bấy giờ là những cánh rừng ở huyện Vạn Ninh, nên ca dao vùng đất này có câu: "Cây quế thiên thai mọc ngoài khe đá/Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm".
2- Theo chỉ dẫn của nhiều người, chúng tôi về xã Vạn Thắng (huyện Vạn Ninh) gặp ông Đặng Văn Sơn - người đã có hơn 30 năm "đi địu" tìm trầm, trong đó có gần 20 năm là bầu trưởng của những nhóm "đi địu". Bây giờ tuổi đã bát tuần nhưng vóc dáng, phong thái của ông như đang độ trung niên. Ông Sơn cho biết, không phải cây dó nào cũng có trầm kỳ, nhiều nhóm "đi địu" xuyên rừng suốt cả tháng trời mỗi chuyến và sau nhiều chuyến mỗi năm đều... trắng tay, hoặc chỉ kiếm được chút ít. Lâu lắm mới có nhóm trúng đậm trầm kỳ, thu về lắm tiền nên đã đánh thức giấc mộng làm giàu của nhiều người rủ nhau khoác ba lô xuyên rừng.
Ngoài chục cân gạo, mì tôm, mắm, muối, cá khô để lo cho dạ dày và một số dầu gió, thuốc tây thông dụng phòng khi cảm sốt, nhức mỏi, cùng một số lễ vật để cầu khấn thần linh đưa đường dẫn lối đến với trầm kỳ, trong hành trang của người "đi địu" phải có rìu, rựa, bộ dũm thép để xoi thân dó lấy trầm.
Theo truyền thuyết người Chăm, nữ thần Ponagar (còn gọi là Thiên Y Thánh Mẫu) được tạo nên bởi áng mây trời và bọt biển đã hóa thân vào cây dó, tạo thành trầm kỳ. Người lương thiện, phúc đức ba đời thường được nữ thần ban cho may mắn, còn không thì đứng cạnh cây dó có trầm kỳ cũng không hề biết. Do đó, mỗi nhóm "đi địu" từ 4-6 người, không xung khắc tuổi tác, cung mệnh, rồi phải chọn ngày lành tháng tốt để xuất hành, nhưng trước đó phải có ít nhất 3 ngày ăn chay, kiêng cử điều xấu, tránh né phòng the.

Nhiều nhóm lên rừng ở Khánh Hòa "mót" trầm khi nghe có người trúng trầm thập niên 90 của thế kỷ trước
Trước khi lên đường và tại cửa rừng, nhóm "đi địu" bày lễ vật cúng nữ thần Ponagar, Cửu thiên huyền nữ, Chúa tể sơn lâm... Trong hành trình "đi địu" không được nói chuyện xấu, việc xui, không gây sự lẫn nhau và phải nói lệch nhiều từ ngữ như: gạo là mễ, muối là diêm, cọp là thầy, đá tảng là gộp, ong đốt là uông ké, ly gọi lơi, rít gọi tôm... Khi tìm thấy trầm kỳ, nhóm "đi địu" ra dòng suối gần nhất hoặc tẩm khăn ướt lau cơ thể sạch sẽ rồi lập bàn cúng tạ sơn thần, thổ địa trước khi đốn hạ cây dó lấy trầm.
Ông Sơn nhớ lại: "Vài chục năm về trước, trên mỗi chặng đường ở chốn sơn lâm đều là rừng thiêng nước độc, dốc cao, suối sâu hiểm trở, thậm chí đã có trường hợp tử nạn hoặc bị thương tật do rắn độc cắn, thú dữ tấn công, sốt rét rừng quật ngã, viêm ruột thừa, trượt chân té ngã chấn thương... Lắm lúc thuốc tây, dầu gió mang theo đã hết, đến khi ốm đau, tai nạn phải nhờ cây lá rừng, thắp hương khấn vái thần linh. Có nhóm đi lạc giữa đại ngàn, ba lô không còn hạt gạo, phải đào củ ngải - một loại gừng dại, có vị thơm dịu để ngậm, giúp cho ruột đỡ cồn cào, nên dân gian có câu "ngậm ngãi tìm trầm", chứ chẳng phải bùa ngãi như nhiều người đồn đoán. Sau hành trình tìm trầm cả tháng trời đầy gian khổ, vất vả và hiểm nguy, có nhóm "đi địu" trở về tay trắng, gương mặt hốc hác, râu tóc mọc dài, trông như... người rừng".
Thế nhưng, mỗi khi nghe đồn trúng trầm nơi này, nơi kia là dân "đi địu" chen nhau đến đó để "mót" trầm. Rầm rộ nhất là thập kỷ 80 - 90 thế kỷ trước, hàng trăm nhóm "đi địu" giẫm nát rừng Hòn Lớn, Hòn Dữ, Sông Giang, Tà Mụ... rồi vượt ngàn đi tiếp đến những cánh rừng xa xăm ở các tỉnh Phú Yên, Đắk Lắk, Gia Lai, Quảng Nam, Bình Phước, Lâm Đồng...
Đã có không ít tai họa xảy ra với người "đi địu". Sự cố rúng động trong giới tìm trầm thời bấy giờ là nhóm "đi địu" 4 người dân Ninh Hòa (Khánh Hòa) đã tử nạn khi đu bám dây rừng vượt sông Bà Lài, xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân (Phú Yên) giữa mùa mưa lũ năm 1989.
Thời ấy, có nhóm trúng trầm kỳ thu về 200 - 300 triệu đồng, tương đương 15 - 20 lượng vàng là to lắm. Nhưng phải đến giữa năm 2007, ông Võ Hiệp (Sáu "cô đơn") - một người dân Khánh Hòa ra Phú Yên lập nghiệp đã trúng đậm kỳ nam tại một vùng rừng ở tỉnh Đắk Lắk sau hơn 20 năm ròng rã bám chốn sơn lâm để tìm vận may. Mặc dù "tỷ phú kỳ nam" ở tuổi ngũ tuần không tiết lộ số lượng "lộc rừng" thu được, nhưng khi đến hiện trường "mót" trầm, một số người sỏi nghề nhận định ông Hiệp đã trúng cả trăm ký, trị giá hàng chục tỷ đồng (!?).
Trong số những người được chia tiền, vàng sau khi trúng trầm kỳ, có người phất lên giàu có nhờ chuyển hướng sản xuất kinh doanh các ngành nghề, nhưng cũng có người phải đi làm thuê kiếm cơm vì lâm cảnh khó khăn hoặc đã ném tiền vào các cuộc ăn chơi, cờ bạc.
Hơn chục năm trở lại đây, những chuyến ngược ngàn "ngậm ngãi tìm trầm" của các nhóm "đi địu" ở xứ trầm hương gần như không còn nữa. Có lẽ sau hàng trăm cuộc lùng sục, đào bới xuyên suốt hàng chục năm trước đó của dân "đi địu" đã khiến cho nguồn cây dó tự nhiên trong rừng cũng đã cạn kiệt. Bù lại là những vườn rừng dó bầu đã hình thành, phát triển và mở rộng tại nhiều địa phương trong tỉnh Khánh Hòa. Làng nghề xoi trầm Phú Hội 1 ở xã Vạn Thắng (huyện Vạn Ninh) đã ra đời thu hút hàng trăm lao động mưu sinh từ nghề xoi trầm bên những cây dó bầu, tạo nên không gian sống động một vùng quê nổi tiếng với câu ca: "Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm".
(Còn tiếp...)