(CATP) Phụ phẩm nông nghiệp được xem là nguồn tài nguyên dồi dào, mang lại nhiều giá trị, lợi ích kinh tế nếu biết cách khai thác. Bên cạnh đó còn hạn chế ô nhiễm, giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời vừa là nguồn nguyên liệu chế biến tái phục vụ sản xuất, chăn nuôi của ngành nông nghiệp.
Ngành nông nghiệp Việt Nam (nhất là lĩnh vực trồng trọt) hằng năm ước tính có hơn 45 triệu tấn rơm khô, khoảng 8 triệu tấn trấu, 30-50 triệu tấn phụ phẩm thực vật khác (lạc, ngô, đậu tương, sắn, mía, cà phê...), trong đó có tới 61% là hữu cơ có thể tái chế. Khối lượng phụ phẩm này hầu hết là xác hữu cơ như: thân, lá, vỏ, hạt, lõi... đều chứa đựng lượng dinh dưỡng rất tốt, có thể hoàn trả, cải tạo bồi dưỡng lại cho đất. Tuy nhiên, việc sử dụng nguồn phụ phẩm từ trồng trọt hiện đang đang bị bỏ ngỏ hoặc chưa khai thác hiệu quả dẫn đến lãng phí.
Theo các chuyên gia, phụ phẩm nông nghiệp trong trồng trọt chủ yếu được đốt tại ruộng (chiếm 45,9%), làm thức ăn cho gia súc (chiếm 29,0%), bỏ lại tại ruộng (chiếm 8,6%), ủ phân (chiếm 5,0%), tái sử dụng cho trồng trọt (chiếm 4,1%), còn lại 7% được sử dụng cho các mục đích khác (củi trấu, nấm, độn chuồng...). Ðối với phụ phẩm của một số loại trái cây như hạt xoài, vỏ chuối, vỏ sầu riêng... có thể tái sử dụng để làm phân bón hữu cơ cho cây trồng ngay tại những vườn xoài, thanh long, dưa hấu..., nhưng hiện đang bị bỏ đi, thậm chí không xử lý tốt còn gây ô nhiễm môi trường. Ðây được đánh giá là lãng phí trong khi sản xuất nông nghiệp đang có nhu cầu rất lớn về phân bón.
Phụ phẩm từ rơm rạ chiếm tỷ trọng lớn
Với lĩnh vực thủy sản, thống kê cho thấy, phụ phẩm từ chế biến thủy sản hiện có khoảng 1 triệu tấn (chiếm 15%-20% tổng sản lượng thủy sản chế biến). Trong đó, chế biến phi lê cá tra có tới 60%-70% là phụ phẩm; tôm phụ phẩm chiếm 35%-45% tổng khối lượng tôm nguyên liệu... Các phụ phẩm thủy sản có thể được thu gom, chế biến thành các sản phẩm hữu ích, có giá trị phục vụ cho sản xuất thức ăn, chế biến thành các sản phẩm có giá trị cao hơn như collagen hay một số thực phẩm ăn liền... Do đó, giá trị từ nguồn phụ phẩm chế biến thủy sản có thể là nguồn thu đáng kể cho ngành thủy sản nếu tận dụng hiệu quả.
Riêng đối ngành trồng lúa, mặc dù rơm đã được thu gom, đóng gói, vận chuyển và buôn bán đang phát triển, nhưng vẫn không tiêu thụ hết lượng lớn hàng năm. Do đó, vẫn còn hiện tượng nông dân đốt bỏ rơm rạ tại ruộng, đây là một trong những nguyên nhân làm tăng hiệu ứng nhà kính, ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Để hạn chế, các nghiên cứu phân hủy rơm rạ thành phân hữu cơ được ứng dụng vào sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Nếu toàn bộ số rơm rạ sau thu hoạch của cả nước được xử lý sẽ đem lại một lượng lớn phân bón hữu cơ.
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, bón liên tục phân hữu cơ rơm rạ ở mức 6 tấn/ha và bón phối hợp 60% phân NPK hóa học theo khuyến cáo thì năng suất lúa cao hơn so với bón 100% phân NPK hóa học. Như vậy, nguồn phân hữu cơ rơm rạ nếu được bón dài hạn qua nhiều năm giúp giảm được từ 40% đến 60% phân NPK hóa học theo mức khuyến cáo và cho năng suất lúa tương đương. Nếu việc phân hủy rơm rạ thành phân hữu cơ để sử dụng trong sản xuất trồng trọt được khuyến khích áp dụng rộng rãi, sẽ góp phần đáp ứng mục tiêu giảm phát thải nhà kính của Chính phủ và ngành trồng lúa có thể tham gia vào thị trường tín chỉ carbon của thế giới.
Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Trần Thanh Nam khi nói về phát triển kinh tế tuần hoàn để tận dụng hết nguồn phụ phẩm trong ngành nông nghiệp hiện nay cũng chỉ rõ, nước ta đang phải đối mặt với những thách thức về ô nhiễm môi trường, thâm dụng tài nguyên từ sản xuất nông nghiệp. Vậy nên tương lai nền nông nghiệp Việt cần dựa vào tri thức và công nghệ để phát triển nông nghiệp tuần hoàn, việc này đã và đang trở thành xu hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới.
Không chỉ vậy, hầu hết các hiệp định thương mại Việt Nam tham gia hiện đều quy định về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tuân thủ các tiêu chuẩn phát thải, chất thải, khí thải. Đây là tiền đề thúc đẩy nền nông nghiệp Việt tăng tốc chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp tuần hoàn, hướng đến nông nghiệp tăng trưởng xanh. Do đó, để phát huy giá trị của các nguồn phụ phẩm nông nghiệp, cần giải thích cho người nông dân hiểu, nâng cao nhận thức, chuyển đổi tư duy của họ trong quá trình thực hiện chuỗi giá trị sản xuất nông nghiệp.
Trên tinh thần đó, Bộ NN-PTNT giao các đơn vị chức năng xây dựng các chương trình lồng ghép vào kế hoạch sản xuất, các chương trình chuyển giao khoa học công nghệ liên quan đến nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn đến các hộ sản xuất, trang trại, tổ hợp tác, HTX và các doanh nghiệp. Đồng thời, Bộ sẽ nghiên cứu tham mưu đề xuất Chính phủ về cơ chế, chính sách khuyến khích thúc đẩy kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp, trong đó có các giải pháp liên quan đến sử dụng hiệu quả phụ phẩm nông nghiệp và nguồn tài nguyên tái tạo.