3 lần trả hồ sơ điều tra bổ sung
Như Chuyên đề Công an TPHCM đã phản ánh, ngày 04-6-2021, Cơ quan điều tra ban hành KLĐT, đề nghị truy tố 9 bị can. Trong đó, 2 cán bộ địa chính P.Phú Đông (TP.Tuy Hòa) Biện Khắc Dũng và Đinh Khắc Thuật, bị đề nghị truy tố theo khoản 2, Điều 356 BLHS. Cả 7 bị can còn lại bị đề nghị truy tố tội "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng", gồm Huỳnh Quốc Trí - Phó Chủ tịch UBND kiêm Chủ tịch Hội đồng đăng ký quyền sử dụng đất (ĐKQSDĐ) P.Phú Đông; Nguyễn Thanh Đạt - cán bộ P.Phú Đông; Trần Việt Hòa - Trưởng KP3, P.Phú Đông; Nguyễn Anh Tuấn và Trần Minh Thủ - cán bộ Văn phòng ĐKQSDĐ; Nguyễn Mạnh Tín - cán bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường (TNMT) TP.Tuy Hòa; Võ Công Toàn - Phó trưởng Phòng TNMT (đã chuyển công tác).
Sau 2 lần Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) TP.Tuy Hòa trả hồ sơ để điều tra bổ sung (ngày 18-6-2021 và ngày 24-9-2021), Cơ quan điều tra đã có 2 KLĐT bổ sung, đều do Thượng tá Lê Minh Hải ký (ngày 18-8-2021 và 24-11-2021), giữ nguyên quan điểm đề nghị truy tố 9 bị can.
Ngày 22-5-2022, VKSND TP.Tuy Hòa tiếp tục trả hồ sơ lần 3. Ngày 25-7, Thượng tá Hải ký KLĐT bổ sung, xác định: Căn cứ tài liệu chứng cứ thu thập được, Cơ quan điều tra đề nghị truy tố 2 bị can Dũng và Thuật theo Điều 356 BLHS. Đối với 7 bị can "thiếu trách nhiệm", cần xem xét toàn diện hành vi phạm tội nhưng thời hạn điều tra bổ sung đã hết nên Cơ quan điều tra quyết định tách thành một vụ án riêng xử lý.
Nhà đất thuộc thửa 36
Theo KLĐT, năm 2000, vợ chồng ông Nguyễn Thái Lân mua giấy tay 193,4m2 đất thuộc thửa 36, toạ lạc KP.3, P.Phú Đông của bà Trần Thị Thảo, sau đó xây 2 căn nhà 32m2 và 35m2 trên đất. Ngày 22-7-2012, ông Lân bán giấy tay nhà đất trên cho ông Trần Ngọc Hiếu giá 280 triệu đồng.
Tháng 5-2015, ông Hiếu lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận (GCN) quyền sử dụng thửa đất 36, nhưng ông Thuật trả lời không đủ điều kiện; muốn cấp GCN phải do chủ đất cũ (ông Lân) đứng tên đề nghị. Làm theo hướng dẫn, ông Hiếu nộp hồ sơ đứng tên ông Lân. Ngày 12-6-2015, Hội đồng ĐKQSDĐ P.Phú Đông họp (có 4 ông Trí, Dũng, Đạt, Hòa), kết luận: "Đủ điều kiện". Hồ sơ được chuyển đến Văn phòng ĐKQSDĐ thẩm định, qua Chi cục Thuế tính thuế (nộp 100% tiền sử dụng đất), rồi đưa về Phòng TNMT đề xuất.
Được UBND TP.Tuy Hòa cấp GCN số CD 577588 ngày 05-4-2016, vợ chồng ông Lân ký hợp đồng có công chứng chuyển nhượng nhà, đất lại cho ông Hiếu 3 ngày sau đó.
Theo kết luận giám định của Chi cục Quản lý đất đai thuộc Sở TNMT tỉnh Phú Yên, UBND TP.Tuy Hòa cấp GCN số CD577588 cho ông Lân không đúng quy định. Ông Hiếu cũng không đủ điều kiện để được cấp GCN. Ông Hiếu không được cấp thì thửa đất 36 không được cấp GCN cho ai khác (?!)
Cũng theo kết luận giám định, việc họp xét nguồn gốc đất, lấy ý kiến khu dân cư, niêm yết công khai thuộc trách nhiệm của nhóm cán bộ P.Phú Đông. Việc kiểm tra, thẩm định hồ sơ có "thiếu sót" của 4 ông Tuấn, Tín, Thủ, Toàn.
Căn cứ kết luận giám định, Cơ quan điều tra tiến hành định giá thửa đất 36 theo thị trường là 336,516 triệu đồng, rồi lấy kết quả định giá này trừ đi các chi phí "hợp lý” mà ông Hiếu đã nộp hơn 83 triệu đồng (tiền sử dụng đất, phí trước bạ...), ra con số 253,51 triệu đồng, là thiệt hại trong vụ án. Từ đó, Cơ quan điều tra khởi tố 9 bị can nêu trên.
Lại kêu oan...
Nhận KLĐT bổ sung lần 3, nhóm 4 cán bộ gồm các ông Toàn, Tuấn, Tín, Thủ tuy đã "thoát" bị đề nghị truy tố nhưng tiếp tục có đơn kêu oan.
Ông Võ Công Toàn
Trong vụ án này, cơ quan tố tụng đã căn cứ vào kết luận giám định của Chi cục Quản lý đất đai quy kết cấp GCN số CD577588 không đúng quy định để khởi tố 9 bị can. Trong khi 4 cán bộ chứng minh đã cấp đúng, làm tròn trách nhiệm, không gây thiệt hại cho Nhà nước nên liên tục khiếu nại, kêu oan.
Nhóm 4 cán bộ cùng trình bày: Theo KLĐT bổ sung lần 3, Cơ quan tố tụng đã yêu cầu thu hồi GCN số CD577588 nhưng UBND TP.Tuy Hòa không thực hiện. Đây là minh chứng rõ nhất cho việc nhóm cán bộ tham mưu cấp GCN số CD577588 cho ông Lân là đúng đối tượng, trình tự thủ tục theo luật định nên không có căn cứ để thu hồi. Hơn nữa, vợ chồng ông Lân ký hợp đồng bán đất cho ông Hiếu, có công chứng, đã được cập nhật sang tên ngày 09-5-2016, nên càng không thể thu hồi GCN, theo khoản 3 Điều 106 Luật Đất đai và khoản 5, 6 Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ.
Cả 4 cán bộ cùng chứng minh việc cấp GCN đúng quy định
Thứ nhất, khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực, cùng các nghị định hướng dẫn thi hành, những trường hợp mua bán đất giấy tay trước ngày 01-01-2008 được xem xét, giải quyết. Đối chiếu quy định, trong 3 đối tượng sử dụng thửa đất 36 chỉ có ông Lân đủ điều kiện được cấp GCN, do mua đất của bà Thảo năm 2000 (trước ngày 01-01-2008), được pháp luật thừa nhận theo khoản 1 Điều 82 Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ.
Thứ hai, ông Lân bán nhà đất cho ông Hiếu sau ngày 01-01-2008 không được pháp luật thừa nhận. Dù ông Hiếu đang ở trên thửa đất 36 nhưng quyền sử dụng thửa đất này vẫn thuộc vợ chồng ông Lân. Thực tế, trên bản đồ đo đạc năm 2010 và trong sổ mục kê đất đai lập ngày 03-7-2015 có xác nhận của Sở TNMT tỉnh Phú Yên, thửa đất 36 vẫn do ông Lân đứng tên. Vợ chồng ông Lân hội đủ điều kiện để được cấp GCN theo luật định.
Thứ ba, vì bán nhà đất trái luật nên cán bộ địa chính P.Phú Đông hướng dẫn ông Lân hoàn tất thủ tục để chuyển nhượng lại cho ông Hiếu nhằm khắc phục hậu quả. Trên cơ sở hồ sơ của Hội đồng ĐKQSDĐ P.Phú Đông, nhóm 4 cán bộ đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm, tham mưu cho UBND TP.Tuy Hòa xem xét cấp GCN cho vợ chồng ông Lân là đúng quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 99 Luật Đất đai 2013; khoản 3 và khoản 5 Điều 22, khoản 4 Điều 70 và khoản 1 Điều 82 Nghị định 43.
ông Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Mạnh Tín
Hai ông Lân - Hiếu nhận ra việc mua bán nhà đất giấy tay không đúng. Khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực, Ông Lân chịu cùng ông Hiếu lập thủ tục xin cấp GCN rồi ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất 36 theo quy định pháp luật. Việc này không chỉ khắc phục mua bán giấy tay mà còn tạo điều kiện cho Nhà nước quản lý, thu thuế đối với thửa đất 36.
Thứ tư, ngoài vợ chồng ông Lân, còn 5 hộ dân tại P.Phú Đông sử dụng 5 thửa đất có nguồn gốc giống nhau, đều được UBND TP.Tuy Hòa cấp GCN. Cả 5 trường hợp này đều được Cơ quan điều tra khẳng định cấp đúng quy định. Duy chỉ có ông Lân bán lại cho ông Hiếu sau ngày 01-01-2008 thì biến thành "cấp sai", bị xử lý hình sự. Nếu ông Lân không chuyển nhượng thì là cấp đúng (?!).
Thứ năm, chính Chi Cục quản lý đất đai khẳng định thửa đất 36 do người dân sử dụng ổn định, liên tục, không tranh chấp, khiếu nại, phù hợp với quy hoạch. Thửa đất này không phải đất công nên việc cấp GCN cho ông Lân hay đối tượng nào khác cũng không gây thiệt hại cho Nhà nước khi đã nộp đầy đủ tiền sử dụng đất, đúng theo khoản 2 Điều 7 Nghị định 45/2014/NĐ. Việc này đã được thể hiện rõ trong kết luận giám định ngày 13-02-2020 về nghĩa vụ tài chính của ông Lân: "Tiền sử dụng đất và lệ phí trước bạ ông Lân đã nộp cho ngân sách Nhà nước theo đúng các quy định". Cả 5 trường hợp giống ông Lân cũng nộp tiền sử dụng đất tương tự, theo bảng giá đất do UBND tỉnh Phú Yên ban hành. Nếu quy kết cấp cho ông Lân sai thì 5 trường hợp kia cũng không đúng.
Từ những phân tích nêu trên, có cơ sở để xác định, UBND TP.Tuy Hòa cấp GCN cho vợ chồng ông Lân là đúng quy định pháp luật. Việc Chi Cục quản lý đất đai kết luận thửa đất 36 "không được cấp GCN cho ai", trở thành đất "vô chủ” là hoàn toàn không có căn cứ.
Nhóm cán bộ cùng lên tiếng: Vụ án đã kéo dài, chúng tôi khẩn thiết đề nghị các cơ quan tố tụng TP.Tuy Hòa tiến hành trưng cầu giám định việc cấp GCN thửa đất 36 đến một cơ quan chức năng khác (cụ thể như Tổng cục Quản lý đất đai thuộc Bộ TNMT) để có kết luận mới, đảm bảo tính công tâm, khách quan, từ đó lấy làm căn cứ xử lý toàn diện vụ án, tránh oan sai...