(CAO) Việc làm thêm giờ phải được sự đồng ý của người lao động và tuân thủ đầy đủ các quy định có liên quan của Bộ luật Lao động.
Thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ vừa ký ban hành Nghị quyết số 17/2022/UBTVQH15 quy định số giờ làm thêm trong 1 năm, trong 1 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội.
Nghị quyết được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XV thông qua tại phiên họp thứ 9 diễn ra hôm 23/3.
Việc làm thêm giờ phải được sự đồng ý của người lao động
Với Nghị quyết được ban hành, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của người lao động (NLĐ) thì được sử dụng NLĐ làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong 1 năm.
Quy định này không áp dụng với NLĐ từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi; NLĐ là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; NLĐ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.
Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi cũng không thuộc đối tượng áp dụng của Nghị quyết.
Các điều khoản kể trên không áp dụng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 107 của Bộ luật Lao động.
Quy định số giờ làm thêm trong 1 tháng, Nghị quyết nêu rõ, trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng NLĐ làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của NLĐ thì được sử dụng NLĐ làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.
Việc thực hiện quy định về số giờ làm thêm tại Nghị quyết, theo yêu cầu của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, phải tuân thủ đầy đủ các quy định khác có liên quan của Bộ luật Lao động.
Khi tổ chức làm thêm giờ, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan chuyên môn về lao động thuộc UBND cấp tỉnh theo quy định tại khoản 4 Điều 107 của Bộ luật Lao động.
Người sử dụng lao động có trách nhiệm áp dụng các biện pháp nâng cao năng suất lao động và các biện pháp khác nhằm giảm thiểu việc làm thêm giờ.
Trong trường hợp phải làm thêm giờ, người sử dụng lao động thực hiện các chế độ phúc lợi bảo đảm cho NLĐ có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động.
Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, hướng dẫn, tổ chức thi hành Nghị quyết này.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tăng cường tuyên truyền, thông tin, chỉ đạo, hướng dẫn công đoàn các cấp trong việc giám sát thực hiện Nghị quyết, bảo vệ quyền lợi của NLĐ, thúc đẩy việc đối thoại, thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể, các thỏa thuận bảo đảm phúc lợi cho người lao động trong quá trình thực hiện Nghị quyết này.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam và các tổ chức đại diện của người sử dụng lao động khác tăng cường tuyên truyền, thông tin đến người sử dụng lao động để thực hiện Nghị quyết này, đồng thời bảo đảm hài hòa quyền và lợi ích giữa các bên trong quan hệ lao động, hỗ trợ và tăng cường các chế độ phúc lợi cho NLĐ để cùng vượt qua khó khăn, góp phần phục hồi sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội.
Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2022, trừ quy định về số giờ làm thêm trong 1 tháng. Các quy định về số giờ làm thêm trong 1 năm có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022.