Chiều 2/6/2023, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV, Đại tướng Tô Lâm, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Công an, thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ, đã trình bày Tờ trình dự án Luật Căn cước, trong đó nêu rõ, việc xây dựng dự án Luật Căn cước nhằm phục vụ giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; phát triển kinh tế, xã hội; xây dựng công dân số; hoàn thiện hệ sinh thái phục vụ kết nối, khai thác, bổ sung làm giàu dữ liệu dân cư; phục vụ chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo các cấp.
Việc sử dụng thẻ căn cước công dân gắn chíp điện tử giúp giảm thiểu giấy tờ, tạo nhiều thuận lợi, tiết kiệm thời gian, công sức, tiền bạc cho người dân trong giao dịch dân sự.
Lược bỏ vân tay trên thẻ Căn cước
Bộ trưởng Tô Lâm cho biết, dự án Luật Căn cước sửa đổi, bổ sung theo hướng lược bỏ vân tay; sửa thông tin số thẻ căn cước và dòng chữ “căn cước công dân”, quê quán, nơi thường trú, chữ ký của người cấp thẻ thành số định danh cá nhân, nơi đăng ký khai sinh, nơi cư trú...
Việc thay đổi, cải tiến như trên để tạo thuận lợi hơn cho người dân trong quá trình sử dụng thẻ căn cước, hạn chế việc phải cấp đổi thẻ căn cước và bảo đảm tính riêng tư của người dân; các thông tin căn cước của người dân cơ bản sẽ được lưu trữ, khai thác, sử dụng thông qua chíp điện tử trên thẻ căn cước.
Đối với những thẻ căn cước công dân đã cấp thì vẫn còn nguyên giá trị sử dụng, không bị tác động bởi quy định này.
Về người được cấp thẻ căn cước, dự thảo Luật bổ sung quy định về quản lý, cấp thẻ căn cước cho người dưới 14 tuổi và cấp giấy chứng nhận căn cước cho người gốc Việt Nam để bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của họ và phục vụ công tác quản lý nhà nước.
Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm trình bày Tờ trình
Tuy nhiên, việc cấp thẻ cho người dưới 14 tuổi sẽ thực hiện theo nhu cầu, còn đối với người từ đủ 14 tuổi trở lên là bắt buộc.
Thẻ căn cước có giá trị sử dụng để cung cấp thông tin về người dân và tương đương việc xuất trình các giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền cấp có thông tin đã được in hoặc tích hợp trong thẻ căn cước; qua đó, giúp giảm giấy tờ, tạo thuận lợi cho người dân trong thực hiện giao dịch dân sự, thực hiện chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính.
Người dân thực hiện thủ tục tích hợp thông tin vào thẻ căn cước thông qua việc cấp, cấp đổi, cấp lại thẻ căn cước hoặc ứng dụng VNeID khi đã có căn cước điện tử. Việc cấp lại thẻ căn cước được thực hiện trực tuyến trên cổng dịch vụ công quốc gia, người dân không phải đến cơ quan quản lý căn cước để thực hiện thủ tục.
Kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan quản lý căn cước phải cấp, cấp đổi, cấp lại thẻ căn cước cho người dân trong thời hạn 7 ngày làm việc.
Dự thảo cũng Luật quy định, mỗi người dân chỉ có 1 căn cước điện tử là tài khoản định danh điện tử do hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập; việc thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ hành chính công trên môi trường điện tử phải sử dụng căn cước điện tử.
Căn cước điện tử được sử dụng để thực hiện các giao dịch, hoạt động khác theo nhu cầu của người dân. Căn cước điện tử có giá trị sử dụng tương đương như việc sử dụng thẻ căn cước trong thực hiện các giao dịch có yêu cầu xuất trình thẻ căn cước; có giá trị cung cấp thông tin trong các loại giấy tờ, tài liệu đã được tích hợp vào tài khoản định danh điện tử để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối chiếu khi thực hiện các giao dịch có yêu cầu xuất trình giấy tờ đó.
“Hiện nay, Bộ Công an đã cấp được gần 80 triệu thẻ Căn cước công dân cho người đủ điều kiện cấp thẻ nên việc quy định thời hạn hết giá trị sử dụng của Chứng minh nhân dân cơ bản không tác động đến người dân; quy định này sẽ hạn chế việc tiếp tục sử dụng Chứng minh nhân dân cũ, có tính bảo mật không cao bằng thẻ Căn cước và không có nhiều tiện ích; thúc đẩy người dân thay đổi thói quen bằng việc sử dụng thẻ Căn cước gắn chíp điện tử” – Bộ trưởng Tô Lâm cho biết.
Tạo bước đột phá về chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực
Trình bày báo cáo thẩm tra dự án Luật, Trung tướng Lê Tấn Tới, Uỷ viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh (QP&AN) của Quốc hội nhất trí sự cần thiết ban hành Luật Căn cước như Tờ trình của Chính phủ và cho rằng, việc ban hành Luật Căn cước nhằm thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xây dựng Chính phủ điện tử, giải quyết thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; tạo cơ sở pháp lý triển khai thực hiện, tạo bước đột phá về chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực; đồng thời, khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập của Luật Căn cước công dân hiện hành.
“Đề nghị Chính phủ tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số đồng bộ, sớm hoàn thiện ứng dụng tài khoản định danh điện tử, kết nối, chia sẻ thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, phát huy tối đa hiệu quả của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu Căn cước” – Chủ nhiệm Uỷ ban QP & AN nêu quan điểm.
Chủ nhiệm Uỷ ban QP&AN của Quốc hội Lê Tấn Tới trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Căn cước.
Về hồ sơ dự án Luật, Trung tướng Lê Tấn Tới cho rằng, hồ sơ dự án Luật cơ bản đã đầy đủ các tài liệu theo quy định, đủ điều kiện trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5. Để bảo đảm tính khả thi, đề nghị tiếp tục rà soát và đánh giá sâu hơn về tác động của các chính sách mới trong dự án Luật; rà soát, chuẩn bị đầy đủ, kỹ lưỡng dự thảo nghị định, thông tư, tạo điều kiện triển khai thực hiện đồng bộ, thông suốt khi Luật có hiệu lực thi hành.
"Ủy ban QP&AN cho rằng, việc chỉnh lý tên gọi “Luật Căn cước công dân (sửa đổi)” thành “Luật Căn cước” nhằm bảo đảm tính bao quát, đầy đủ, phù hợp với phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của Luật, phù hợp với yêu cầu quản lý và khai thác, sử dụng trong các giao dịch của người dân; do vậy, nhất trí tên gọi của dự thảo Luật là Luật Căn cước” – Chủ nhiệm Uỷ ban QP&AN Lê Tấn Tới nêu rõ.
Uỷ ban QP&AN cũng cơ bản nhất trí phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của dự thảo Luật, vì dự án Luật được xây dựng trên cơ sở Luật Căn cước công dân hiện hành, có bổ sung, sửa đổi một số quy định nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, phục vụ công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự nhưng vẫn phù hợp và kế thừa các quy định về quản lý, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu căn cước công dân, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và thẻ Căn cước công dân. Song, cần lưu ý làm rõ thêm về “Căn cước điện tử” trong dự thảo Luật, vì Căn cước điện tử được giải thích là “tài khoản định danh điện tử”; đồng thời làm rõ hơn cơ sở chính trị, pháp lý, thực tiễn đối với đối tượng là người gốc Việt Nam không có quốc tịch đang sinh sống ở Việt Nam cho phù hợp với tên gọi.
“Ủy ban QP&AN thấy rằng, dự thảo Luật đã bổ sung, chỉnh lý nội dung giải thích một số từ ngữ so với Luật hiện hành, cơ bản phù hợp và đáp ứng tình hình thực tiễn” – Trung tướng Lê Tấn Tới nhấn mạnh; đồng thời cho biết, nhất trí với việc bổ sung đối tượng áp dụng là người gốc Việt Nam chưa xác định được quốc tịch và cho rằng, việc cấp giấy chứng nhận Căn cước cho người gốc Việt Nam sẽ mở ra hướng giải quyết đối với một bộ phận người gốc Việt Nam có nguyện vọng cần có một loại giấy tờ tùy thân, giúp họ ổn định cuộc sống, có việc làm, con em được đến trường, bảo đảm quyền lợi trong giao dịch dân sự, phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước, đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước.
Các đại biểu dự phiên họp.
Về nội dung thể hiện trên thẻ Căn cước (Điều 19), Uỷ ban QP&AN cơ bản nhất trí nội dung điều này nhằm bảo đảm đầy đủ các thông tin cần thiết đối với một công dân; đồng thời đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, phát triển Chính phủ điện tử.
“Ủy ban QP&AN cơ bản nhất trí việc tích hợp một số thông tin về công dân vào thẻ Căn cước nhằm góp phần giảm giấy tờ cho công dân, tạo thuận lợi cho cơ quan, tổ chức và công dân trong các giao dịch hành chính, dân sự, đi lại, cải cách thủ tục hành chính. Đồng thời đề nghị, việc tích hợp thông tin phải đi đôi với việc bảo đảm hạ tầng kỹ thuật và quản lý, sử dụng thông tin để bảo vệ quyền công dân, bí mật đời tư của công dân” – Trung tướng Lê Tấn Tới nhấn mạnh.
Uỷ ban QP&AN cũng nêu quan điểm nhất trí về các nội dung cơ quan soạn thảo đề xuất như về thời hạn, nơi làm thủ tục cấp, cấp đổi, cấp lại thẻ Căn cước; về thu hồi, tạm giữ thẻ Căn cước; về cấp, quản lý Căn cước điện tử…
14 nội dung mới cơ bản so với Luật Căn cước công dân
Luật nhằm quán triệt và cụ thể hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về căn cước; bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật; bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng, Nhà nước về đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân; phục vụ chuyển đổi số quốc gia, góp phần xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, xã hội số. Việc xây dựng dự án Luật được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những bất cập, hạn chế; tạo điều kiện thuận lợi để người dân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.
Cơ quan soạn thảo đã tham khảo có chọn lọc pháp luật về quản lý Cơ sở dữ liệu căn cước công dân, cấp, quản lý và sử dụng giấy tờ về căn cước công dân của một số nước, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. “Dự thảo Luật Căn cước gồm 7 chương, 46 Điều (trong đó, so với Luật Căn cước công dân năm 2014 thì dự thảo Luật đã sửa đổi 39/39 điều, bổ sung mới 7 điều)” – Bộ trưởng Tô Lâm cho biết.
Có 14 nội dung mới cơ bản so với Luật Căn cước công dân năm 2014. Cụ thể, về phạm vi điều chỉnh, dự thảo Luật quy định theo hướng Luật này quy định về căn cước, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước; thẻ Căn cước; giấy chứng nhận Căn cước; Căn cước điện tử; quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Dự thảo Luật mở rộng đối tượng áp dụng, ngoài áp dụng đối với công dân Việt Nam, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; còn áp dụng đối với người gốc Việt Nam đang sinh sống tại Việt Nam nhưng chưa xác định được quốc tịch. Dự thảo Luật đã bổ sung một điều về giấy chứng nhận Căn cước và quản lý người gốc Việt Nam; quy định việc cấp giấy chứng nhận Căn cước cho những người này.
Về thông tin trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; thu thập, cập nhật thông tin và quản lý, khai thác và sử dụng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, dự thảo Luật quy định theo hướng mở rộng, tích hợp nhiều thông tin khác của công dân và người gốc Việt Nam trong Cơ sở dữ liệu quốc gia, Cơ sở dữ liệu chuyên ngành vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu căn cước để trực tiếp phục vụ cho việc ứng dụng tiện ích của thẻ Căn cước, Căn cước điện tử; kết nối, chia sẻ, thông tin người dân; phân tích, thiết lập bản đồ số dân cư như bổ sung thông tin khác được chia sẻ từ cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành…
Bên cạnh đó, dự thảo Luật đã chỉnh lý, bổ sung quy định về mối quan hệ giữa Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư với các Cơ sở dữ liệu quốc gia, Cơ sở dữ liệu chuyên ngành để bảo đảm hiệu quả triển khai Đề án số 06.