Sau năm 1975, ông là một nhân sĩ yêu nước trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sáng 29- 9-2019, ông đã từ trần tại TPHCM, thọ 95 tuổi.
TƯ LỆNH KHÔNG BAO GIỜ CHIẾM MỤC TIÊU
Ông là chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh thời Chính quyền Sài Gòn trước ngày 30-4-1975. Ông sinh năm 1924 tại xã Phú Phong (H.Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho; nay thuộc tỉnh Tiền Giang) trong một gia đình trí thức. Năm 1945, tốt nghiệp tú tài, ông vào học Trường Võ bị địa phương Nam Việt Vũng Tàu, tốt nghiệp với cấp bậc chuẩn úy, được điều làm trung đội trưởng một đơn vị bộ binh, dưới quyền thiếu úy - Đại đội trưởng Dương Văn Minh. Mối quan hệ này trở nên thân tình giữa hai người và có nhiều ảnh hưởng về sau.
Từ trái sang: các ông Nguyễn Văn Binh, Nguyễn Hữu Hạnh, Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Hảo (đứng phía sau ông Minh) và ông Vũ Văn Mẫu nói chuyện với đại diện quân giải phóng trưa 30-4-1975 (ảnh tư liệu)
Sau khi giữ nhiều chức vụ, năm 1955, ông Hạnh được thăng trung tá, dưới quyền đại tá Dương Văn Minh. Năm 1960, ông Hạnh là Tham mưu trưởng Quân khu Thủ đô. Ba năm sau, ông thăng cấp đại tá, là Tham mưu trưởng Quân đoàn IV. Sau đó, ông lần lượt giữ các chức vụ: Phó tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ binh, Tư lệnh Biệt khu 44, Phó tư lệnh Quân đoàn IV.
Ngày 19-6-1970, ông Hạnh được thăng cấp chuẩn tướng. Sau đó, ông thuyên chuyển làm Phó tư lệnh Quân đoàn II rồi Chánh thanh tra Quân đoàn I. Đến ngày 15- 5-1974, ở tuổi 48, chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh nhận quyết định về hưu do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký.
Trong nhiều lần đối mặt với lực lượng Quân Giải phóng, ông thường lệnh cho binh lính đánh ở thế giằng co mà không tiến chiếm mục tiêu. Khi Quân Giải phóng rút, ông cũng ra lệnh thu quân, không đánh tiếp. Các cố vấn Mỹ mỉa mai gọi ông là “Tư lệnh thận trọng”, “Tư lệnh không bao giờ chiếm mục tiêu”.
ĐÁM TANG ĐẶC BIỆT VÀ NGƯỜI MANG BÍ SỐ S7 - SAO MAI
Tháng 10-1963, tại xã Phú Phong (H.Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho) diễn ra một đám tang rất đặc biệt. Người quá cố là ông Nguyễn Hữu Điệt (cha ruột đại tá Tham mưu trưởng Quân đoàn IV, Vùng 4 chiến thuật Nguyễn Hữu Hạnh). Trước khi nhắm mắt, ông Điệt trăn trối ước nguyện được chôn cất ở quê, bên cạnh phần mộ tổ tiên.
Đây là điều rất khó khăn đối với ông Hạnh, vì phần mộ tổ tiên nằm trong vùng Mặt trận Giải phóng kiểm soát. Ông quyết định thương lượng với Mặt trận Giải phóng xã Phú Phong, xin được an táng cha. Chính quyền xã Phú Phong đồng ý, với điều kiện hai bên phải ngừng bắn trong 3 ngày. Đám tang diễn ra suôn sẻ, hai bên tuân thủ nghiêm ngặt lệnh ngừng bắn. Ba ngày sau, ông Hạnh bày tỏ nguyện vọng được đến thăm mộ cha bằng trực thăng. Lực lượng cách mạng đồng ý, với điều kiện ông đi một mình. Ông Hạnh thực hiện đúng giao ước và trở về Cần Thơ bình yên.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh trở thành mối quan tâm số một của Ban Binh vận Trung ương Cục miền Nam. Nhiệm vụ tiếp cận, vận động được giao cho ông Nguyễn Tấn Thành (họ hàng với ông Hạnh). Ông Thành đã hai lần bị địch bắt, nhưng được ông Hạnh tìm cách cứu thoát. Ông Thành đã tác động, hướng ông Hạnh đứng về phía cách mạng.
Từ đây, ông Hạnh mang mật danh S7 - Sao Mai cho tới ngày 30-4-1975, không bị lộ. Từ khi hợp tác với cách mạng, không những thực hiện những yêu cầu của Trung ương Cục miền Nam, ông Hạnh còn tự giác ứng phó trong mọi tình huống, không để điều gì bất lợi xảy ra cho nhân dân, cho cách mạng.
Ông Nguyễn Hữu Hạnh ở tuổi 90
ĐIỆP VỤ “BIG MINH”
Trong cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm vào năm 1963, ông Nguyễn Hữu Hạnh ngầm ủng hộ tướng Dương Văn Minh - “Big Minh”. Ngày 1-1-1963, “Big Minh” nhân danh Chủ tịch Hội đồng quân nhân cách mạng phát lệnh đảo chính Ngô Đình Diệm và lên làm Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa.
Trong thời gian làm Quốc trưởng, “Big Minh” có một số hành động có lợi cho cách mạng: Ra lệnh hủy bỏ 16.000 ấp chiến lược; từ chối yêu cầu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Mc Namara và tướng Harkin để cho Mỹ ném bom nổ chậm trên đê sông Hồng; theo lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, “Big Minh” tỏ ý muốn thương lượng để tuyển cử tự do, thực hiện một chế độ trung lập, lập chính phủ liên hiệp. Mỹ chỉ thị cho chính quyền Sài Gòn lật “Big Minh”, phong “Big Minh” lên đại tướng, cử làm đại sứ lưu động ở Đài Loan, sau đó chuyển sang lưu vong ở Thái Lan, có sự giám sát của CIA.
Khi “Big Minh” được về nước vào cuối năm 1970, theo chỉ đạo của Trung ương và Trung ương Cục miền Nam, Ban Binh vận Trung ương Cục chọn chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh tiếp cận “Big Minh”. Mọi việc đang trên đà tiến triển thuận lợi thì ông Hạnh đột ngột bị thuyên chuyển lên Tây nguyên làm Phó tư lệnh Quân đoàn 2. Ngày 15-5-1974, ông nhận quyết định về hưu do Nguyễn Văn Thiệu ký, ý đồ sâu xa là muốn loại bỏ bớt những tướng, tá theo “Big Minh”. Nhưng rồi “điệp vụ Big Minh” cũng được tiến hành.
Ngày 28-4-1975, ông Hạnh từ Cần Thơ lên Sài Gòn. Đến 15 giờ cùng ngày, “Big Minh” nhậm chức Tổng thống. Hôm sau, ông Hạnh được “Big Minh” phân công giữ chức Phụ tá Tổng tham mưu trưởng. Đến 13 giờ chủ nhật 29-4-1975, ông Hạnh ngồi vào ghế Quyền Tổng tham mưu trưởng.
Nắm được ý của “Big Minh” là “không chống cự”, lại được chỉ đạo của Ban Binh vận nên ông Hạnh điều binh khiển tướng theo ý mình. Thời điểm này là gần 12 năm ông Hạnh thầm lặng đợi chờ. Ông Hạnh đề nghị “Big Minh”: “Tình hình này, Tổng thống cần quyết định ngay, trì hoãn chỉ có hại. Về quân sự thì không thể làm gì được nữa rồi”. Tất cả các ý định ngăn chặn đường tiến công của Quân Giải phóng vào Sài Gòn trong ngày 29-4-1975, đều bị ông Hạnh “vô hiệu hóa” bằng lệnh “án binh bất động”.
Ông Hạnh tiếp tục tác động tinh thần và tham mưu cho “Big Minh”. Ngày 29-4-1975, Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho Giám đốc Nha cảnh sát đô thành Triệu Quốc Mạnh thả tù binh chính trị; gửi công văn yêu cầu Đại sứ Mỹ Martin cho Cơ quan Viện trợ quân sự Mỹ (DAO) rời khỏi Việt Nam trong vòng 24 tiếng để giải quyết hòa bình ở Việt Nam.
Đến 9 giờ ngày 30-4-1975, “Big Minh” đọc trên đài phát thanh: “Đường lối chủ trương của chúng tôi là hòa giải và hòa hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào. Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hòa giải của người Việt Nam để khỏi thiệt hại xương máu của người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa hãy bình tĩnh, không nổ súng và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em chiến sĩ Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng. Chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để cùng nhau thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong một trật tự, tránh đổ máu vô ích của đồng bào”.
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cũng thảo một Nhật lệnh yêu cầu tướng, tá và binh sĩ chế độ Sài Gòn thi hành lệnh của Tổng thống ngay tức khắc. Rồi cũng đến 11 giờ 30 ngày 30-4-1975... Và ông Nguyễn Hữu Hạnh, bí số S7- Sao Mai đã hoàn thành nhiệm vụ.
Sau năm 1975, ông Hạnh được cử giữ chức vụ Tổng thư ký Hội Nhân dân bảo trợ nhà trường, sau được bầu làm Ủy viên Trung ương MTTQ Việt Nam với tư cách là nhân sĩ yêu nước. Ông đã sống trọn một đời không hổ thẹn với nghĩa khí và lòng yêu nước truyền thống của dòng tộc, của một người Việt Nam.