Cách đây 51 năm, từ những ngôi chùa trên cung đường ấy, nhiều cuộc đấu tranh, với sự lãnh đạo của các vị sư trong Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước đã nổ ra. Ngày 10/6/1974, dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ban Khmer vận và Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước của vùng đất Kiên Giang, 4 vị sư đã cùng lực lượng sư sãi chùa Cù Là Cũ và hơn 3.000 người dân ở Kiên Giang tổ chức biểu tình đấu tranh đòi chính quyền chế độ cũ Việt Nam cộng hòa (VNCH) không được bắt sư sãi đi lính và bắn phá chùa chiền. Đây là cuộc đấu tranh chính trị rộng lớn được đông đảo đồng bào Khmer và các dân tộc khu vực Tây Nam Bộ ủng hộ và là một trong những cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc Tổng tiến công Mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sự hy sinh anh dũng của 4 vị sư liệt sĩ Lâm Hùng, Danh Hoi, Danh Tấp, Danh Hom đã thắp lên ngọn lửa đấu tranh anh dũng và là niềm tự hào của đồng bào Khmer nói riêng, người dân trên địa bàn tỉnh Kiên Giang nói chung.

Ban thờ bốn vị sư liệt sĩ trong tháp
Đại đức Danh Hoi
Sư Danh Hoi SN 1951 tại ấp Xà Xiêm, xã Bình An, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Năm 14 tuổi, sư được song thân đưa đến chùa Xà Xiêm Mới xuất gia và học tiếng Khmer. Đến năm 1971, Hòa thượng Bổn sư cho sư thọ giới Tỳ kheo với Hòa thượng Danh Dên, cư trú và tu học tại chùa Khlang Ông. Sư Danh Hoi chính thức gia nhập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước ngày 20/4/1974, thuộc đơn vị huyện Châu Thành do Hòa thượng Danh Mây chùa Xà Xiêm Mới phụ trách.
Giai đoạn 1973-1974, chính quyền VNCH tăng cường bắt lính đối với thanh niên Tăng Khmer, với ý định không cho học chữ Khmer, không cho sử dụng tiếng Khmer trong giao tiếp, không cho tu học Phật pháp và làm lễ theo phong tục tập quán của người gốc Khmer... Những sự việc này khiến sư Danh Hoi quyết tâm dấn thân vào con đường đấu tranh, nhận nhiệm vụ của Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước, phát động trong hàng ngũ thanh niên tăng và thanh niên phật tử xuống đường biểu tình đấu tranh với bọn tay sai cầm quyền. Ngày 10/6/1974, sư cùng đoàn sư sãi xuống đường biểu tình, đến quận Kiên Thành thì bị binh lính xả súng. Dù trọng thương, sư vẫn gắng sức vượt qua hàng rào kẽm gai, nhưng do trúng thêm 7 phát đạn vào người, sư đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 10 giờ 35 phút cùng ngày.
Đại đức Danh Hom
Sư Danh Hom SN1950 tại ấp Thạnh Lợi (nay là ấp Xà Xiêm, xã Minh Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang). Ngày 26/4/1967, sư được xuất gia thọ giới Sa di tại chùa Khlang Mương (huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang). Ngày 16/5/1970, Hòa thượng Bổn sư cho sư thọ giới Tỳ kheo với Hòa thượng Danh Vĩnh, đến 16/3/1974 sư được suy cử chức Phó trụ trì chùa Khlang Mương, chính thức gia nhập Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước huyện Châu Thành. Vào dịp lễ trà tỳ nhục thân cố Hòa thượng Danh Con tại chùa Khlang Mương ngày 08/6/1974, sư được Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước phân công hướng dẫn đoàn sư sãi biểu tình đấu tranh chống chính quyền VNCH bắn phá chùa chiền, kỳ thị đối với đồng bào dân tộc, đàn áp tôn giáo và sư sãi Khmer trong toàn tỉnh Kiên Giang.
Sáng sớm ngày 10/6/1974, các thanh niên Tăng cùng nhau xuống đường biểu tình đấu tranh, đến trước quận Kiên Thành thì cảnh sát nổ súng nhắm vào đoàn người. Sư Danh Hom bị trọng thương nơi chân, ngã quỵ và trút hơi thở cuối cùng vào lúc 10 giờ 35 phút cùng ngày.
Đại đức Danh Tấp
Sư Danh Tấp SN1941 tại xã Bình An, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang, mồ côi cha mẹ từ năm lên 7 tuổi. Sau đó, sư xuất gia tu học tại chùa Gò Đất, xã Minh Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Năm 1962, sư được Bổn sư cho thọ giới Tỳ kheo với Hòa thượng Danh Hậu tại chùa Gò Đất, năm 1967 được bổ nhiệm Phó trụ trì chùa Gò Đất, tham gia Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước huyện Châu Thành và giữ chức Phó hội trưởng huyện này. Năm 1968, sư được bổ nhiệm trụ trì chùa Gò Đất và sau đó 2 năm đã hoàn tục để thực hiện nhiệm vụ Cách mạng. Do phát hiện nên địch truy lùng gắt gao, lục soát khắp nơi để tìm Achar Danh Tấp. Hoạt động bí mật bị lộ, sư phải trở lại xuất gia lần thứ hai tại chùa Khoe Ta Tưng (ấp Minh Hưng, xã Minh Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang). Tại đây, sư vẫn tiếp tục hoạt động Cách mạng với nhiệm vụ liên lạc cho Mặt trận Giải phóng huyện Châu Thành và được phân công dẫn đoàn biểu tình do Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước tỉnh Kiên Giang tổ chức. Sư đã vận động lực lượng các chùa: Khoe Ta Tưng, Gò Đất, Xà Xiêm Cũ và Xà Xiêm Mới cùng tham gia xuống đường.

Tháp Cù Là, nơi tưởng niệm bốn vị sư liệt sĩ
Sau khi tổ chức xong lễ trà tỳ nhục thân Hòa thượng Danh Con, toàn thể chư tăng đã tập hợp và nhân cơ hội này cùng nhau xuống đường. Sư lãnh đạo đoàn biểu tình di chuyển từ chùa Khlang Mương đến chùa Khlang Ông một cách an toàn. Khi đoàn tiến về tỉnh lỵ Kiên Thành, do bị trúng đạn, sư Danh Tấp đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 10 giờ 35 phút cùng ngày giữa tiếng khóc của đoàn người biểu tình.
Đại đức Lâm Hùng
Sinh năm 1947, sư Lâm Hùng là người con của ấp Vĩnh Đằng, xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Năm 1964, song thân cho phép sư đến chùa Cù Là Cũ (ấp Vĩnh Niên, xã Vĩnh Hòa Hiệp) để tu học theo truyền thống của người Khmer. Năm 1967, sư thọ giới Tỳ kheo tại chùa này. Ngày 16/3/1972, sư được bổ nhiệm Phó trụ trì chùa Cù Là Cũ, tham gia Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước huyện Châu Thành do sư Danh Mây làm Hội trưởng. Lúc 16 giờ ngày 16/10/1965, giặc Mỹ dùng máy bay ném bom xuống chùa Đường Xuồng (xã Định Hòa, huyện Gò Quao) làm hơn 300 sư sãi, đồng bào Khmer chết và bị thương, trong đó có Hòa thượng Danh Kim trụ trì chùa Thanh Gia, do có học nghiệp vụ y tá, sư tham gia chăm sóc, trị liệu cho bà con Khmer và các bạn đồng liêu của mình. Sư Lâm Hùng tham gia Cách mạng và là thành viên Ủy ban Mặt trận huyện Châu Thành.
Ngày 08/6/1974, Cảnh sát VNCH bắt 10 vị sư. Hôm sau, sư Lâm Hùng cùng một số sư sãi tập hợp tại chùa Cà Lang để đấu tranh đòi bọn chúng trả tự do cho tất cả, nhưng các sư đã bị giải về quận Kiên Thành. Trong cuộc họp đặc biệt được tổ chức tại phòng của Đại đức Danh Kê, sư Lâm Hùng đã triệu tập sư sãi đại diện các chùa để đấu tranh trực diện với địch. Hội nghị quyết định các sư sãi trong toàn tỉnh gồm 71 chùa cùng nhau tiến hành cuộc đấu tranh.
Sáng sớm 10/6/1974, cuộc xuống đường do sư Lâm Hùng phụ trách với hơn 2.000 sư sãi cùng 600 đồng bào đi dọc Lộ 12 từ Minh Lương theo hướng Rạch Sỏi đến dinh quận Kiên Thành. Quân đội VNCH kéo ba dãy hàng rào thép gai chặn đường, đặt mìn ngăn đoàn biểu tình. Khoảng 30 vị sư khi vượt khỏi lớp hàng rào thứ ba thì nhiều loạt súng trường và súng máy nổ dữ dội. Sư Lâm Hùng trúng đạn quỵ ngã, trút hơi thở cuối cùng vào lúc 10 giờ 45 phút cùng ngày.
Vinh danh
Ngày 02/3/1979, Chính phủ Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã truy tặng Bằng Tổ quốc ghi công cho Đại đức Danh Hoi, Đại đức Danh Hom, Đại đức Danh Tấp và Đại đức Lâm Hùng. Ngày nay, tháp thờ 4 nhà sư liệt sĩ nằm ở khu phố Minh Phú, thị trấn Minh Lương. Để ghi nhớ công ơn của 4 vị sư liệt sĩ đã anh dũng hy sinh trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của dân tộc, ngày 20/9/1990 Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch) công nhận Tháp 4 nhà sư liệt sĩ là Di tích lịch sử cấp quốc gia.
Trải qua nhiều biến cố lịch sử cũng như những thăng trầm thời cuộc, sự hy sinh anh dũng của 4 vị sư liệt sĩ vẫn được tôn vinh trong lòng bao thế hệ, là tấm gương sáng cho hậu thế noi theo với tinh thần phụng sự đạo pháp và dân tộc. Hội Đoàn kết Sư sãi yêu nước đã phối hợp với chính quyền địa phương cùng các ban ngành chức năng tổ chức lễ tưởng niệm ngày hy sinh vì nền độc lập, tự do cho Tổ quốc của 4 vị sư liệt sĩ này.
(CATP) Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam có biết bao tấm gương anh hùng, liệt sĩ đã ngã xuống mà muôn đời sau không thể nào quên, và cố Thượng tọa Thích Thông Thiết là một trong số đó. Người là biểu tượng sáng ngời của tinh thần phụng đạo yêu nước - một nhà sư không chỉ gìn giữ ngọn đèn chánh pháp mà còn góp phần nhóm lên ngọn lửa Cách mạng trên mảnh đất Gia Lâm khói lửa năm xưa.
Nhà nghiên cứu Sử học PHAN NGỌC DŨNG