Đồng bằng sông Cửu Long sau hạn mặn lịch sử: Kỳ 2 - Nỗi lo bên đập Ba Lai

Thứ Hai, 27/06/2016 10:46

|

(CAO) Sông Ba Lai dài khoảng 55km nằm trọn trong tỉnh Bến Tre, bắt đầu từ huyện Châu Thành chảy qua thành phố Bến Tre, xuống huyện Giồng Trôm và đi tiếp giữa huyện Bình Đại với Ba Tri rồi đổ ra biển.

Từ năm 2000 đến 2002, cống đập Ba Lai được xây dựng với kinh phí hơn 84 tỷ đồng để chặn sông Ba Lai tại xã Thạnh Trị (Bình Đại) cách biển chục km. Mục tiêu xây cống là nhằm ngăn mặn để “ngọt hóa” gần 100.000 ha đất nông nghiệp nhiễm mặn trên.

Nay đi từ thành phố Bến Tre về cống đập Ba Lai, còn cách mấy chục km đã thấy nhiều ao nuôi tôm. Quang cảnh xóm ấp, nơi xanh tươi mát mắt nhưng cũng có nơi vàng hoe cằn cỗi, dừa xơ xác lá.

Cuộc sống khó khăn

Gia đình bà Nguyễn Thị Thu Hà ở ấp 4, xã Bình Thới, nuôi tôm công nghiệp gần 2 ha. Bà kể, nuôi tôm đã 18 năm, trước kia khá thuận lợi vì có nước mặn dưới sông Ba Lai bơm lên, xử lý làm sạch rồi thả giống. Từ ngày có cống đập Ba Lai, nước dưới sông mặn không ra mặn, ngọt không ra ngọt, không nuôi tôm được nữa mà phải khoan giếng để lấy nước mặn.

Nước mặn từ giếng khoan bị nhiễm kim loại, phải cho qua ao lắng lọc, xử lý kỹ mới nuôi tôm được. Gia đình bà nuôi tôm công nghiệp nhưng thả giống mật độ thưa, chăm sóc rất cẩn thận nên tránh được thua lỗ, có cuộc sống khá giả, nuôi con ăn học đầy đủ, làm nhà cửa đàng hoàng.

“Nhưng nước sinh hoạt thì chúng tôi phải xây bể trữ nước mưa, vì nước sông tù đọng nhơn nhớt, tanh tanh không xài được”, bà nói và chỉ ra sau nhà. Ở đó có hàng lu lớn và 8 cái bể xi măng hình tròn có nắp đậy để chứa nước mưa. Chồng của bà Hà là ông Tư Thiệt cho biết nuôi tôm cần nước mặn tự nhiên thì bây giờ nước dưới sông không còn, mà nước ngọt thì lại chưa được ngọt hẳn nên làm ăn rất khó khăn. Nếu nước ngọt thật sự thì có thể làm lúa, trồng cây ăn trái, dừa chứ như bây giờ thì “dừa cũng xơ xác, không được bao nhiêu trái”.

Còn cách cống đập Ba Lai mấy chục km đã san sát ao tôm

Láng giềng với ông Tư Thiệt là ông Ba Hồng cũng than thở cuộc sống khó khăn vì tình trạng môi trường bị ô nhiễm, do sông Ba Lai đã như một cái ao tù đọng khổng lồ. Ông nói: dù mặn hay ngọt thì nước phải chảy thông luồng lạch mới thành dòng sông có sức sống, chứ bế tắc là ra sông chết, chỉ còn là ao. Cũng lời ông Hồng, ông bỏ mối thức ăn thủy sản nên biết vùng này trước đây người dân nuôi tôm tương đối khá, mấy năm nay chỉ khoảng 1% có lời, còn lại thua lỗ.

“Tôi có đứa cháu rể tên là Hà, kỹ sư thủy sản từ Nha Trang vô đây làm quản lý cho một doanh nghiệp, mướn 3 ha đất nuôi tôm. Mấy năm đầu thu hoạch cũng đỡ nhưng gần đây thua lỗ nên nghỉ rồi. Ở đây, nuôi tôm chưa bị lỗ như gia đình bà Hà láng giềng của tôi là hiếm hoi lắm. Không chỉ tôm chết mà năm nay nhiều nhà nuôi cá cũng lỗ vì cá chết, do nước ô nhiễm và quá mặn”- ông Ba Hồng cho biết.

Ông Nguyễn Ngọc Hải - Giám đốc hợp tác xã nuôi cá tra Thới An ở thành phố Cần Thơ, cùng bạn bè sang đây mở cơ sở sản xuất cá tra giống và nuôi tôm đều thất bại. Trại sản xuất cá tra giống rộng chừng 30 ha, mở ra ở nơi trước đây đào đất đắp đập Ba Lai, ở huyện Bình Đại. Năm nay nước mặn quá nên không sản xuất được. Còn nuôi tôm, ông cùng bạn bè mướn 70 ha đất ở huyện Ba Tri nằm bờ bên kia sông Ba Lai, nuôi mới hơn năm đã lỗ 5 tỷ đồng.

Tiếp tục “ngọt hóa”

Tổ trưởng quản lý cống đập Ba Lai, anh Trần Hữu Hiệp cho biết, thiên tai hạn mặn năm nay, nước trên cống cũng có độ mặn 5,5 g/lít. Hiện nay, đã có mưa nhiều nên độ mặn trên cống giảm xuống còn 0,3 g/lít. Anh Hiệp giải thích nguyên nhân vùng “ngọt hóa” mà mặn chát là do nhiều cửa sông ở mạn trên chưa làm cống, nước mặn lấn vô “tập hậu”.

Theo anh Hiệp, dự án “ngọt hóa” ở đây có nhiều hạng mục nhưng mới làm được một hạng mục là cống đập Ba Lai ngăn mặn, nên chưa đem lại hiệu quả. Sắp tới, đầu tư tiếp các hạng mục như đê và cống dưới đê ở bờ sông Ba Lai, nhất là làm hai âu thuyền An Hóa và Bến Tre để trữ nước ngọt, dự án mới có hiệu quả rõ rệt.

Hai âu thuyền chính là hai nửa con sông lớn cắt ngang đầu sông Ba Lai, nửa đổ ra sông Mỹ Tho gọi là sông An Hóa, nửa chảy qua thành phố Bến Tre đổ ra sông Hàm Luông gọi là sông Bến Tre. Đầu năm nay, nước mặn từ sông Mỹ Tho và Hàm Luông hai ngả ập vào khiến sông Ba Lai mặn đắng. Để biến hai nửa con sông lớn thành hai túi trữ nước ngọt, phải xây cống ở cửa ra sông Mỹ Tho và Hàm Luông.

Bể chứa nước mưa của các hộ dân địa phương trự nước ngọt để sử dụng do nước sông, nước giếng đều nhiễm mặn 

“Như thế, sông An Hóa và Bến Tre cũng thành ao tù đọng, thêm những con sông thơ mộng thành sông chết!”, chuyên gia IUCN Nguyễn Hữu Thiện nhận xét. Ông Thiện băn khoăn: nếu dự án ngọt hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp, đầu tư lớn để tạo ra giá trị nhỏ thì cần xem lại, nhất là sinh thái mặn cũng có giá trị. Còn nước cho sinh hoạt thì lại có nhiều cách đầu tư rẻ hơn, và kinh nghiệm dân gian đúc kết qua hàng trăm năm rất phong phú.

Có điều đáng lo ngại khác là khi đắp nhiều cống đập, sẽ đẩy con sông Ba Lai và cả cửa biển Ba Lai vào chỗ bị bồi lấp, biến mất. Nghiên cứu của Nguyễn Thọ Sáo và Nguyễn Minh Huấn ở Khoa Khí tượng Thủy văn và Hải dương học của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết: “Nếu không có lưu lượng sông đủ lớn để đẩy dòng chảy ra xa, dòng bùn cát sẽ thâm nhập vào cửa sông hoặc xa hơn, gây bồi lấp cửa”. Cửa Ba Lai có độ sâu 5-7 m, do điều kiện tự nhiên mà bị bồi lấp rất mạnh, từ ngày có đập Ba Lai đã cạn đi nhanh chóng.

Viện Địa chất của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam cũng kết luận: “Cửa sông này đã ngừng chảy do bồi tụ và xây dựng công trình giao thông thủy lợi”. Còn theo nghiên cứu của trường Đại học Cần Thơ thì “Cửa Ba Lai là một ví dụ về sự tàn lụi của một cửa sông do tác động của con người (…). Hệ thống cống đập ở cửa sông Ba Lai được xây dựng, hệ quả làm cho quá trình bồi lấp xảy ra nhanh hơn và đến nay thì cửa sông này đã ngừng chảy”.

Anh Điệp tung chài bắt cá dưới cống đập Ba Lai

Ở chân cống đập Ba Lai có anh Đinh Hồng Điệp 38 tuổi, dân xã Thạnh Trị, đang vung chài bắt cá. Anh chỉ bắt cá mạn dưới, không lên phía “ngọt hóa” mạn trên và giải thích: “Trên đó ít cá lắm”. Xa xa theo dòng sông, mạn dưới thấy có thuyền đánh cá còn mạn trên, vắng hoe. Từ ngày xây cống đập Ba Lai đến nay đã 16 năm, chỉ mới thấy những thiệt hại về kinh tế, môi trường. Nếu tiếp tục đầu tư thêm nhiều công trình lớn nữa thì bao giờ đạt được hiệu quả mong muốn và thực ra, cơ sở nào để khẳng định sẽ có hiệu quả?

Bình luận (0)

Lên đầu trang