“... Thắng lợi của Kế hoạch CM12 đã giáng đòn quyết định làm thất bại âm mưu cấu kết, móc nối trong - ngoài nhằm tấn công vũ trang trong “chiến tranh phá hoại nhiều mặt” của các thế lực thù địch và phản động đối với Việt Nam. Đây là chiến thắng của sự vận dụng sáng tạo và kiên trì đường lối cách mạng của Đảng và lãnh đạo Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), là minh chứng về sự chủ động bố trí thế trận an ninh nhân dân. Đồng thời, khẳng định sức mạnh đoàn kết thống nhất, hiệp đồng tác chiến giữa lực lượng Công an Nhân dân (CAND) với Quân đội Nhân dân và các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể địa phương và quần chúng nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc. Đây cũng là thắng lợi của trí tuệ và bản lĩnh chính trị, với khả năng dự báo chính xác tình hình và nghệ thuật chỉ huy, chỉ đạo, chủ động triển khai có hiệu quả các kế hoạch chiến đấu của lực lượng CAND. Thành tích, chiến công của lực lượng CAND trong thực hiện thắng lợi Kế hoạch CM12 có ý nghĩa vô cùng to lớn mang tầm chiến lược không chỉ về mặt nghiệp vụ mà còn có giá trị lịch sử rất quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc, là một trong những chiến công điển hình, một mốc son chói lọi, tô đậm truyền thống anh hùng, vẻ vang của CAND Việt Nam...” (phát biểu của Đại tướng Tô Lâm - Ủy biện Bộ Chính trị - Bộ trưởng Bộ Công an (hiện là Tổng Bí thư) trong lễ kỷ niệm 38 năm thắng lợi kế hoạch phản gián CM12 (09/9/1984 - 09/9/2022) - đăng trên Báo CAND ngày 11/8/2022).
HOÀN CẢNH RA ĐỜI KẾ HOẠCH PHẢN GIÁN CM12
Sau Đại thắng mùa xuân 1975, cả dân tộc Việt Nam được hưởng niềm vui hòa bình sau 30 năm kháng chiến chống thực dân, đế quốc nhiều gian khổ, hy sinh để giành độc lập, thống nhất đất nước. Đó cũng là giai đoạn nhiều thử thách với những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, như: kinh tế suy kiệt do hạ tầng bị bom đạn tàn phá; hàng vạn tướng lĩnh, hạ sĩ quan, sĩ quan, công chức chế độ cũ không chịu trình diện, học tập cải tạo mà thành lập hàng trăm tổ chức phản động để chống phá. Hàng ngàn đối tượng trong số đó chuyển sang hoạt động trộm cướp, giết người với vô số vụ án mạng dã man, gây căm phẫn trong dư luận. Chúng ta còn bị nước lớn bao vây, cấm vận trong lúc viện trợ kinh tế từ các nước XHCN cũng giảm dần sau chiến tranh. Ngoài cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc, Việt Nam còn phải đưa quân tình nguyện sang giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng Polpot; giúp nước bạn Lào bảo vệ thành quả cách mạng suốt từ sau 1975 đến cuối 1989. Trong khi đó, “cải tạo công thương nghiệp” và hợp tác hóa ở miền Nam không đạt được mục đích như kế hoạch (sau này Đại hội Đảng lần VI đã đánh giá là do “chủ quan, duy ý chí” dẫn tới nóng vội, sai lầm)... Tất cả những vấn đề đó làm cho cuộc sống người dân ở miền Bắc lẫn miền Nam, ở trong những gia đình có người thân đang đi học tập cải tạo hoặc gia đình cán bộ, đảng viên đều khó khăn như nhau. Các thế lực xấu liền lợi dụng điều này để kích động, xuyên tạc, chia rẽ... làm nhiều người hoang mang, bỏ trốn ra nước ngoài bằng con đường vượt biên và chịu nhiều tai ương, thảm họa!

Các thế lực chống phá liền vu cáo Việt Nam “xâm lược Campuchia”, “vi phạm dân chủ, nhân quyền”... rồi tài trợ cho các tổ chức phản động lưu vong hoạt động “kháng chiến phục quốc”, “chuyển lửa về quê nhà”... Điển hình như: “liên minh quang phục Việt Nam” của Võ Đại Tôn; “mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam” (tiền thân của tổ chức khủng bố, lừa đảo Việt Tân) của Hoàng Cơ Minh; “đảng Dân Tộc” và “chính phủ Việt Nam tự do” của Nguyễn Hữu Chánh... “Mặt trận thống nhất các lực lượng yêu nước giải phóng Nam Việt Nam” (gọi tắt là “mặt trận” do Lê Quốc Túy - Mai Văn Hạnh - 2 cựu sĩ quan không quân VNCH cầm đầu) - đối tượng của Kế hoạch phản gián CM12 cũng nằm trong số những tổ chức phản động lưu vong này. Cũng như các “chiến hữu” nói trên, nhóm của Lê Quốc Túy - Mai Văn Hạnh cũng nuôi ảo vọng dựa vào ngoại bang để chống phá chính quyền cách mạng còn non trẻ ở miền Nam. Trước khi thất bại lần lượt, cũng theo bài bản chung là xây dựng các “mật cứ” trên đất Thái Lan để huấn luyện lực lượng biệt kích, gián điệp (được tuyển mộ từ những thanh niên, cựu lính, sĩ quan VNCH vượt biên đang sống bức bách, ngột ngạt, tăm tối, tuyệt vọng trong các trại tạm cư ở một số nước Đông Nam Á nên nhận lời); rồi tung các đội biệt kích này về nước để phá hoại, khủng bố, giết người... nhằm “tạo tiếng vang” thu hút thêm tiền của, vũ khí của ngoại bang và lừa gạt bà con Việt kiều. Chúng ép họ “đóng góp cho kháng chiến” (ai không đóng góp sẽ bị quy chụp là “cộng sản nằm vùng”, “đâm sau lưng chiến sĩ”... rồi bày đủ trò đe dọa, khủng bố những bà con người Việt đang vất vả vì mưu sinh trên xứ lạ, quê người).
Lực lượng CAND với chủ công là các đơn vị nghiệp vụ an ninh đã chủ động nắm bắt tình hình, bám sát các di biến động của chúng và chủ động đưa địch vào “thiên la địa võng” đã giăng sẵn, rồi lần lượt hốt gọn từng chuyến xâm nhập của bọn biệt kích, đập tan mưu đồ của bọn đầu sỏ ở hải ngoại cũng như kế hoạch hậu chiến của các thế lực quốc tế muốn chống phá Việt Nam!
DIỄN BIẾN
Theo các tài liệu đã công bố, chúng tôi xin tổng hợp lại: Đầu năm 1981, một toán biệt kích, gián điệp mang mật danh “Minh Vương 1” được Túy - Hạnh “xuất xưởng” từ mật cứ trên đất Thái Lan, xâm nhập bằng đường bộ qua Campuchia để về Việt Nam. Khi đến Kiên Giang thì toán này đụng phải một đơn vị bộ đội trong rừng U Minh Thượng. Một số tên bị tiêu diệt, một số bị bắt sống và số còn lại băng rừng, chạy thoát về mật cứ. Sau thất bại này, Túy - Hạnh đổi chiến thuật, tung toán “Minh Vương 2” xâm nhập về bằng đường biển. Toán này được giao nhiệm vụ luồn sâu vào rừng U Minh, lập “mật cứ kháng chiến”, tuyển mộ lực lượng lập những biệt đội ám sát, dùng chất nổ phá hoại những mục tiêu quan trọng ở TPHCM và một số tỉnh, thành để gây tiếng vang; thực hiện ý đồ đưa “mặt trận” ra hoạt động công khai, tiến tới lật đổ chế độ... Đêm 15/5/1981, toán “Minh Vương 2” (hay còn gọi là “Hongkong 1”) xâm nhập chuyến đầu tiên tại Vàm Bãi Ghe, vùng biển tại huyện Trần Văn Thời (tỉnh Minh Hải cũ). Toàn bộ nhóm biệt kích này (có 3/9 tên đầu thú) đã bị bắt cùng toàn bộ điện đài, vũ khí sau khi tên toán trưởng K44 bị tiêu diệt do ngoan cố chống cự.

Đại tá, Anh hùng LLVTND Trần Phương Thế (Tám Thậm, ngoài cùng bên trái) chụp hình cùng Mai Văn Hạnh (ngoài cùng bên phải) sau khi được Ban Chuyên án bố trí xâm nhập vào tổ chức của địch (ảnh tư liệu)
Từ thắng lợi này và các bằng chứng thu được từ công tác trinh sát, kỹ thuật, nghiệp vụ trước đó về hoạt động gián điệp, biệt kích xâm nhập, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng) kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) Phạm Hùng cùng các vị lãnh đạo lực lượng Công an lúc đó đã quyết định lập Kế hoạch phản gián CM12 (tức Cà Mau 12/5/1981 - ngày toán biệt kích xuất phát từ một mật cứ ở Thái Lan). Lúc đầu được gọi là Kế hoạch “AB-27”; AB viết tắt của chữ An Biên (Kiên Giang), nơi bắt được biệt kích đầu tiên là Trần Minh Hiếu; còn 27 tức 27/01/1981 là ngày diễn ra cuộc họp quan trọng xác lập chuyên án, sau mới đổi thành CM12.
Toán “Minh Vương 2” được cảm hóa, nhận ra lỗi lầm và xin được lập công chuộc tội. Trong phiên liên lạc đầu tiên với “trung tâm” ở hải ngoại lúc 21 giờ ngày 25/5/1981, “tổ đặc biệt” này đã thực hiện theo chỉ đạo của Ban chuyên án và đã lừa được tổng hành dinh của địch, để tiếp tục đưa các toán biệt kích, vũ khí, tiền giả... về. Từ tháng 5/1981 đến tháng 9/1984, chúng ta đã đón bắt 18 chuyến xâm nhập, bắt 189 tên gián điệp - biệt kích, thu 3.679 súng các loại, 90 tấn đạn, 1,2 tấn chất nổ, 14 tấn tiền Việt Nam giả, nhiều điện đài và phương tiện phá hoại khác. Chiến công xuất sắc này càng thêm ý nghĩa khi chúng ta bắt được Mai Văn Hạnh, bóc gỡ 10 tổ chức phản động khác được địch cài cắm theo kế hoạch hậu chiến sau 1975, bắt hơn 1.000 tên đang ẩn nấp dưới các vỏ bọc khác nhau ở TPHCM và nhiều tỉnh, thành. Ngày 14/12/1984, tại TPHCM, Tòa án Nhân dân tối cao đã mở phiên tòa xét xử Mai Văn Hạnh và 20 bị cáo đồng phạm với Hạnh về tội “phản quốc và gián điệp nhằm lật đổ chính quyền”. Sau 5 ngày xét xử, tòa đã tuyên tử hình với Mai Văn Hạnh, Trần Văn Bá, Lê Quốc Quân, Huỳnh Vĩnh Sanh, Hồ Thái Bạch; phạt tù chung thân các bị cáo Trần Nguyên Hùng, Tô Văn Hườn, Hoàn Đình Mỹ... Các bị cáo còn lại bị phạt từ 12 đến 20 năm tù. Sau đó các bị cáo mang án tử hình đã bày tỏ ăn năn hối cãi nên được khoan hồng xuống án chung thân. Mai Văn Hạnh chấp hành án hơn 20 năm rồi được ân xá vào dịp 02/9/2005...
Trước những thất bại nặng nề, nhất là khi phiên tòa này được xét xử công khai, được báo chí trong, ngoài nước rầm rộ đưa tin, nhưng Lê Quốc Túy - kẻ cầm đầu tổ chức “mặt trận” vẫn tiếp tục ngoan cố làm tay sai ngoại bang, chống phá đất nước. Từ tháng 5/1986, Túy lại cấu kết với bọn diệt chủng Polpot tổ chức các toán biệt kích đã huấn luyện ở Thái Lan xâm nhập về Việt Nam qua đường Campuchia để phá hoại. Vì vậy, Chuyên án CM12 vẫn tiếp tục dưới bí danh ĐN10 và tiếp tục thắng lợi rực rỡ. Ngày 30/01/1988, một bức điện ký tên “F2” (tức Hiển) từ tổng hành dinh ở hải ngoại gửi đến tất cả các toán trong nước thông báo “chủ tướng” Lê Quốc Túy đã qua đời lúc 11 giờ ngày 25/01/1988 và an táng vào ngày 06/02/1988 tại Paris - Pháp. “F2” đổi ám danh mới là VT5 và ra vẻ là thủ lĩnh mới khi lên giọng động viên các chiến hữu trong nước tiếp tục “kháng chiến”...
Sau khi lo đám tang cho chồng, Nhan Thị Kim Chi - vợ Lê Quốc Túy bay sang Bangkok để thu vén và thanh toán số tài sản còn lại ở “tổng hành dinh”. Hiển tức F2 hay VT5 đề nghị bà Kim Chi thay chồng lãnh đạo “mặt trận”, nhưng bà từ chối và nhanh chóng trở lại Pháp. Như rắn mất đầu, không còn tiền bạc và cả tương lai; ngày 04/3/1988, Hiển gửi bức điện cuối cùng cho các toán trong nước với nội dung: “Đã đến lúc phải báo sự thiệt (thật) cho các bạn là C4 mất, không để lại di chúc. Mặt trận ta không có người thay thế, hướng đi đến trong tương lai là rất xa vời, chúng ta sẽ thành công cụ của Thái hoặc một thế lực nào đó tại quốc ngoại. Vì quyền lợi của tất cả chúng ta và sự sống còn của mình, chúng ta phải giải tán toàn bộ..., kể từ điện này sẽ chấm dứt mọi sự liên lạc. Chúng tôi ở ngoài này chưa biết số phận sẽ ra sao vì không biết Thái có để yên cho mình không? Thôi cầu chúc các bạn gặp được nhiều sự may mắn để xây dựng lại một cuộc đời mới. Chào tạm biệt. VT5”...
Kế hoạch ĐN10 kết thúc theo sự tan rã của tổ chức phản động này!
“CM12 PHÍA SAU KẾ HOẠCH PHẢN GIÁN”
Diễn biến và kết thúc Chuyên án ĐN10 - giai đoạn 2 của Kế hoạch phản gián CM12 nói trên, được chúng tôi trích từ phần cuối của sách “CM12 phía sau kế hoạch phản gián” của Thiếu tướng, nhà văn Nguyễn Khắc Đức - nguyên Cục trưởng Cục Kỹ thuật nghiệp vụ I Bộ Công an. Đây cũng là người tham gia Kế hoạch CM12 từ giai đoạn đầu cho đến khi kết thúc với vai trò một trinh sát kỹ thuật nghiệp vụ an ninh. Ông tâm sự: “Từ cuối năm 1980 và đầu năm 1981, khi vụ án mở ra, được tiếp cận thông tin và những tài liệu ban đầu, với tư cách là một cán bộ nghiên cứu ở bộ phận tham mưu và trực tiếp chiến đấu, vừa xử lý tin tức tài liệu liên quan, được phép của các cấp lãnh đạo, chỉ huy, tôi đã thu thập và viết một cuốn tài liệu tham khảo nội bộ phục vụ công tác với tựa đề “Mưu đồ bị đảo ngược” khoảng vài trăm trang... Đến tháng 12/1984, kết thúc giai đoạn một của Kế hoạch CM12, tôi được Nhà xuất bản CAND mời tham gia đoàn nhà văn, nhà báo do Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) tổ chức đi thực tế ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ... để viết, làm phim về chiến công đặc biệt xuất sắc này...
Năm 1999, trong một lần gặp gỡ ông Nguyễn Phước Tân, một trong những người chỉ huy chủ chốt của Kế hoạch CM12, chúng tôi trao đổi và ông đồng ý thực hiện cuốn hồi ký nghiệp vụ về Kế hoạch CM12... Thượng tướng Bùi Thiện Ngộ - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Thượng tướng Cao Đăng Chiếm - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an và các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an lúc bấy giờ là Bộ trưởng Lê Minh Hương, Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Khánh Toàn... đều ủng hộ!
Tôi (Thiếu tướng, nhà văn Nguyễn Khắc Đức) rất phấn khởi và vinh dự lãnh trách nhiệm thu thập tài liệu và thể hiện cuốn sách... Cuối năm 2019, Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn - nguyên UVTW Đảng, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an cho tôi cùng tiếp một người Pháp vốn có thiện cảm với Cách mạng Việt Nam và là bạn thân của Mai Văn Hạnh thời kỳ ở Pháp và Algeria, ông cung cấp thêm một số thông tin về Mai Văn Hạnh trước và sau khi bị bắt và được ân xá rồi bị ám sát, chết ở Mỹ như thế nào... Được sự động viên của các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Bộ Công an, Tổng cục An ninh và sự khích lệ đầy cảm hứng của các nhà văn, đồng đội, tôi viết cuốn truyện ký “CM12 - phía sau kế hoạch phản gián”... (NXB Công an Nhân dân 2020 - tác phẩm này được giải C cuộc thi viết tiểu thuyết, truyện và ký về đề tài “Vì an ninh Tổ quốc và bình yên cuộc sống” lần thứ IV (2017 - 2020) do Bộ Công an và Hội Nhà văn Việt Nam đồng tổ chức)”.

Thiếu tướng, nhà văn Nguyễn Khắc Đức
Đọc hết cuốn sách này mới thấy những gian khổ, hy sinh của CBCS CAND, cụ thể là lực lượng An ninh tham gia chuyên án kéo dài hơn 3.000 ngày đêm (từ đầu năm 1981 cho đến khi Lê Quốc Túy chết ở Pháp vào ngày 06/02/1988 là hơn 8 năm), trong đó giai đoạn cao điểm Kế hoạch CM12 (đầu 1981 đến cuối 1984). Ngoài hai sĩ quan dũng cảm, thông minh nằm vùng trong đội hình của địch với mật danh NKA1 (Tám Thậm, tức Đại tá AHLLVTND Trần Phương Thế - nguyên PGĐ Công an tỉnh Cà Mau) và NKA2 - Mười Lắm, tức Thiếu tướng Hồ Việt Lắm, nguyên Giám đốc Công an tỉnh Cà Mau, nguyên Cục trưởng Cục An ninh Tây Nam Bộ; còn có rất nhiều CBCS tham gia chuyên án và lập được nhiều chiến công xuất sắc. Đọc hết sách “CM12 - phía sau kế hoạch phản gián” của Thiếu tướng, nhà văn Nguyễn Khắc Đức, độc giả rất ấn tượng với Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Hùng; Thứ trưởng Bộ Nội vụ Cao Đăng Chiếm và những tướng lĩnh CAND như: Thi Văn Tám, Nguyễn Khánh Toàn, Nguyễn Phước Tân, Lê Tiền, Trần Tôn Thất, Tống Ngọc Minh... Đó là những vị lãnh đạo xuất sắc với lòng yêu nước, bản lĩnh, tài ba đã “đọc” được ý đồ của những thế lực quốc tế muốn chống phá, cô lập Việt Nam. Đã đoán được đường đi nước bước của những kẻ cầm đầu các tổ chức phản động, khủng bố như Lê Quốc Túy, Mai Văn Hạnh và đám tàn quân chế độ Sài Gòn cũ lưu vong đang nuôi mộng liên kết với những đối tượng bất mãn, cơ hội trong nước để “phục quốc”. Từ đó đề ra nhiều đối sách phù hợp cho từng đối tượng, từng trận đánh, từng thủ thuật trong “trò chơi nghiệp vụ” của Kế hoạch phản gián CM12. Họ đã đề cao “nhân nghĩa thắng hung tàn” để cảm hóa, thu phục những người đã lầm được lạc lối, tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cãi, lập công chuộc tội, giúp chuyên án này thành công ngoài mong đợi.

Tác giả Nguyễn Khắc Đức viết về phía đối phương rất thận trọng, chu đáo nên đã tạo ra những chương sách vừa sinh động, lôi cuốn, vừa rất thuyết phục. Nhờ là “người trong cuộc” nên tác giả có những kiến thức, cảm xúc tuyệt vời với từng nhân vật ở “hai bên chiến tuyến”; với các tình huống và biện pháp nghiệp vụ nhạy cảm. Vì thế ngoài những giá trị văn học, cuốn sách này còn là một tài liệu rất quý về lực lượng CAND với truyền thống yêu nước, dựa vào Nhân dân để đấu tranh chống các thế lực từ bên ngoài xâm nhập vào phá hoại. Đây còn là “cẩm nang” chứa rất nhiều thông tin rất cần thiết, nhiều bài học cảnh giác cho các hoạt động nghiệp vụ phòng, chống tội phạm, bảo vệ cuộc sống bình yên và hạnh phúc của Nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng và môi trường đầu tư, phát triển trong giai đoạn đất nước ta “tiến vào kỷ nguyên mới” như chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm.