(CATP) Là người phụ nữ đầu tiên được Nhà nước tặng Huân chương Sao Vàng, cuộc đời và sự nghiệp của bà Nguyễn Thị Thập, nguyên Phó chủ tịch Quốc hội, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tấm gương tiêu biểu về phẩm chất Anh hùng, Bất khuất, Trung Hậu, Đảm đang của phụ nữ Việt Nam.
Bà Nguyễn Thị Thập (1908 - 1996) tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Tốt, sinh ra tại tỉnh Tiền Giang. Bà là một trong số 10 phụ nữ của cả nước được bầu vào Quốc hội khóa đầu tiên. Trong chuyến đi họp Quốc hội khóa đầu tiên ấy, đoàn của bà gồm 6 người, từ nhiều nơi tụ họp về căn cứ rừng miền Đông Nam bộ.

Bà Nguyễn Thị Thập (1908 - 1996)
Đoàn bắt đầu xuất phát từ con suối Trị An, nước tuôn ầm ầm như thác đổ, vào một ngày đầu tháng 2 năm 1946, bà Nguyễn Thị Thập kể: “Hồi đó, anh em chưa có kinh nghiệm như bộ đội, cán bộ vượt Trường Sơn đều có mang theo võng sau này, nên cứ ngồi tựa lưng vào ba lô hoặc trải lá ra mà nằm. Tôi ngồi bên gốc cây, gần suối cho mát… Tôi vừa thiu thiu sắp chợp mắt, bỗng giật nẩy người ngồi phắt dậy, lùi hai ba bước. Một con nhái mới từ bờ suối nhảy lên, thì con rắn gì đen mun nổi hạt cườm đỏ như ớt chín từ đầu tới giữa sóng lưng lao ra, như diều sớt gà, sớt ngay con nhái từ trên không, trước khi nó chạm tới đất. “Rắn gì mà ghê quá, các anh ơi!”.
Tôi sợ hãi kêu lên. Con rắn ngoạm mồi, cổ vẫn cất cao, đủng đỉnh bò khuất sau một hốc cây, mặc kệ cho chúng tôi đứng trố mắt nhìn theo.
“Con chàm quạp lửa. Rừng miền Đông này thiếu gì chàm quạp”. Tôi hỏi đồng chí Tư vốn là người sinh trưởng ở vùng rừng miền Đông, được giao nhiệm vụ đưa đoàn người xuyên rừng đến trạm liên lạc đầu tiên của vùng cực Nam Trung bộ: “Rắn này có độc không anh Tư. Cắn chết người không anh? Vùng chúng tôi không có thứ rắn này”. Anh Tư chậm rải nói: “Nhiều lắm. Con to nhất chỉ bằng ngón chân cái màu nâu sẫm. Còn con hồi nãy các đồng chí thấy đó là chàm quạp lửa, không biết khác giống hay nó là con rắn già, sống lâu năm rồi trổ mã. Chàm quạp cắn ai chết nấy, độc còn hơn rắn hổ, mái gầm. Trừ phi gặp thầy giỏi hoặc người nào có thuốc sẵn trong mình, uống ngay thì may ra mới thoát”. Không ai bảo ai, tự nhiên mọi người đều ngó ngoái ra chung quanh, và co chân ngồi xúm xít lại gần bên anh Tư. Bác sĩ Cương hỏi: “Anh có đem theo thuốc rắn không?”. Anh Tư lắc đầu và cười.
Bác sĩ Cương mặt đăm chiêu ngó ra dòng suối, giọng trầm ngâm, không biết anh nói gì với anh Tư và chúng tôi hay tự thán một mình: “Bất cứ bệnh tật hay tai nạn gì xảy đến cho con người, chủ yếu cũng đều do lơ là, khinh suất. Bởi ai cũng nghĩ là điều đó không thể xảy ra cho mình! Cứ như cái chết, muôn loài đều không tránh khỏi, nhưng con người có mấy ai nghĩ rằng mình sẽ chết đâu. Đến giờ nhắm mắt xuôi tay, mới hối là khi sống mình làm điều ác quá, mà không đem lại lợi ích gì, sung sướng hạnh phúc gì cho đồng loại. Khi cái Thiện còn bị lu mờ, thì kiếp sống con người còn lắm dằng dai đau khổ”.
Nguy hiểm ở rừng đâu chỉ có vắt, kiến càng, rắn mà còn có cả voi, cọp, sự chỉ điểm của con người: “Giữa muôn ngàn thứ “tiếng nói” lạ lùng, bí ẩn của các loài vật trong rừng, trong tối đen còn xuất hiện những cặp mắt xanh lè, vàng chói, đỏ như than hồng… Sợ nhất là mắt hổ. chỉ một lần nhìn thấy thôi là đủ nhớ suốt đời. Anh Tư chỉ cho chúng tôi và dặn: “Nai mắt xanh nhưng con nai cái thay nhung cũng đỏ như mắt hổ. Nhưng mà mắt hổ khác, đỏ hơn, đỏ như hai hòn than cháy. Thỉnh thoảng nó biết nhắm bớt một con để đánh lừa địch thủ. Khi nhắm mắt bên này, khi nhắm mắt bên kia. Đó là hổ sống lâu năm, hổ dữ!”.
Một con hổ chực gần bờ suối để bắt các con mồi nhỏ đến uống nước, hay rình đoàn người chúng tôi đang đi tới mà cứ đứng hoài một chỗ. Các anh la “Cọp! Cọp!” vang rừng, để dọa nó, nó không thèm chạy mà cũng chẳng bỏ đi. Đã vậy, nó còn lẻo đẽo theo chúng tôi một dãy khá xa. Cơ sự này thì phải dừng lại đốt lửa lên thôi!”.
Chuyến đi xuyên rừng năm ấy, bà Nguyễn Thị Thập lưu giữ nhiều ký ức về bác sĩ Nguyễn Văn Cương. Xuyên suốt cuộc đời vị bác sĩ ấy là lòng yêu nước và niềm tin tôn giáo. Bà ví von đoàn đại biểu Quốc hội cũng gần giống như đoàn “Tam Tạng thỉnh kinh” của truyện Tây du ký: “Bác sĩ Cương thì ăn chay trường. Anh lúc nào cũng quảy tòng teng theo một nải chuối. Anh ăn cơm với chuối và muối, hoặc chỉ có muối.

Bà Nguyễn Thị Thập (hàng đầu, bìa phải) cùng các nữ đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên năm 1946
Hát quốc ca chào cờ ở Tổng hành dinh Nguyễn Bình mỗi sáng, mỗi lần hát câu “Thề phân thây uống máu quân thù”, anh Cương đều ngậm miệng lại, không hát câu này. “Câu gì mà kỳ quá, nghe dữ dội quá!”. Anh thổ lộ với các anh kia như vậy. Là bác sĩ chuyên trị hoa liễu, xưa hàng tuần khám cho gái điếm đi “lục xì” mà nói chuyện với các phụ nữ thì cứ xấu hổ, lúng túng như gà mắc tóc, coi bộ hiền giống Sa Tăng.
Còn họa sĩ Huỳnh Văn Gấm, không biết là Trư Bác Giới hay Tôn Hành Giả. Dường như anh có bóng dáng phảng phất của hai nhân vật này. Trong đoàn mỗi người đều có bình toong đựng nước uống. Anh chỉ xin nước của anh em mà không đụng tới cái bình toong của mình. Hóa ra, cái bình toong của anh là bình toong đựng rượu đế. Không ai bầu tôi là trưởng đoàn nhưng rồi tự trong sinh hoạt, mọi người mặc nhiên xem tôi như trưởng đoàn và tôi cũng tự thấy trách nhiệm của mình phải lo lắng cho anh em như một người chị cả, hoặc một đứa em gái”.

Bà Nguyễn Thị Thập (thứ hai từ phải sang) thời ở chiến khu Việt Bắc năm 1953
Lần hồi, đoàn “Tam Tạng thỉnh kinh” cũng đến được một trạm liên nhưng bị người dẫn đường từ chối. Đoàn người lại nhắm sao Bắc đẩu mà đi. Lúc này sự thuộc lòng những chòm sao lúc trốn vào ngủ bưng ở quê hương đã giúp bà rất nhiều để nhắm đường. Họ lại xuyên qua cánh rừng Tây Nguyên rồi tìm một chiếc thuyền. Thuyền họ lại rơi vào tâm “Bão sữa”, một loại bão rất lạ và rất đáng sợ. Trời biển gầm réo, cột buồm gãy, bọt biển quay cuồng, trắng như sữa. Chiếc cứ trôi, cứ trôi … Thật may mắn chiếc ra khỏi được vùng bão. Trời quang mây tạnh, họ lại dựng buồm đi tiếp. Hết vượt biển lại đi đường tàu hoả. Mãi gần ba tháng trời , đoàn người mới ra đến Hà Nội.
Các đại biểu trong Nam vui mừng rối rít kể nhau nghe những bất trắc của hành trình và cho rằng họ đã gặp may. Nhưng bà tự nhủ: “Đoàn mình đi qua rừng, rừng không lối, đêm nhìn hướng sao, sao đánh lừa, ngày vượt biển, biển lại bão. Nhưng người lạc lối không địa bàn, phương hướng nhưng tất cả luôn hướng về trung ương. Nhờ vậy mà chúng tôi đã đến…”.