(CAO) Cuộc chiến tranh Barbary lần thứ nhất (1801-1805) là cuộc chiến đầu tiên giữa Mỹ và các quốc gia Bắc Phi (gồm có Libya, Tunisia, Algerie, Maroc), diễn ra dưới thời Tổng thống Thomas Jefferson. Thời điểm đó, Mỹ và các nước châu Âu gọi các quốc gia này là Barbary.
Trước đây, cướp biển ở Barbary là nỗi khiếp sợ với các tàu chở hàng khi đi qua vùng biển Địa Trung Hải. Hải tặc Barbary còn đánh cướp các tàu chở hàng của Mỹ và các nước châu Âu, buộc các nước này phải nộp tiền chuộc mới đồng ý thả người và thuyền. Ngoài ra, các thương nhân Mỹ phải thường xuyên ‘đóng phí’ cho hải tặc Barbary nếu muốn bình yên đi qua vùng biển Địa Trung Hải.
Hải tặc Barbary từng là cơn ác mộng với các tàu chở hàng đi qua vùng biển Địa Trung Hải.
Năm 1801 Libya quyết định tăng tiền phí, Tổng thống Thomas Jefferson đã thẳng thừng từ chối đáp ứng yêu cầu. Tức giận trước quyết định cứng rắn của Tổng thống Thomas Jefferson, ngày 10-5-1801 Libya tuyên chiến với Mỹ.
Hải quân Mỹ dưới sự chỉ huy của Đại tá Richard Dale nhận lệnh đến vùng biển Địa Trung Hải để bảo vệ các tàu chở hàng của Mỹ và chống lại hải tặc. Năm 1802, Tổng thống Jefferson tăng sự hiện diện của hải quân Mỹ trong khu vực Barbary bằng cách triển khai thêm các tàu chiến dưới sự chỉ huy của Đại tá Edward Preble.
Dưới sự chỉ huy của 2 Đại tá Richard Dale và Edward Preble, hải quân Mỹ đã phong tỏa cảng biển của địch, bắn phá các pháo đài trên bờ của hải tặc Barbary.
Tranh vẽ trận Derne.
Ngày 6-3-1805, Tướng William Eaton và Trung úy hải quân Presley O'Bannon dẫn đầu một đội gồm 8 thủy quân lục chiến Mỹ và 500 lính đánh thuê, vượt quãng đường dài 800 km qua sa mạc, đột nhập thành phố cảng Derne. Tướng William Eaton và hải quân Mỹ đã ‘nội ứng ngoại hợp’, thành công chiếm được thành phố cảng Derne của cướp biển Barbary.
Thất bại trong trận Derne đã khiến Barbary phải khiếp sợ trước sức mạnh của hải quân Mỹ và đồng ý kí hiệp ước hòa bình, kết thúc chiến tranh.