Bà Tôn Nữ Thị Ninh:
Tôi thấy tất cả những nhà lãnh đạo kể trên đều có tầm vóc của những chính khách, chứ không đơn thuần là những nhà hoạt động chính trị. Phong thái, kiến thức, cách ứng xử và nhãn quan chính trị, tấm lòng luôn vì nước, vì dân của họ khiến bất cứ ai tiếp xúc cũng đều nể trọng, kể cả những người không cùng chính kiến, quan điểm. Chuyến đầu tiên tôi đi dịch cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng vào khoảng tháng 5-1980 tại Ấn Độ. Tiếng Pháp thì bác rất giỏi, còn tiếng Anh bác chỉ nghe hiểu chứ không nói được. Thế nhưng sau buổi dịch, bác nhận xét về tiếng Anh của tôi: “Cô phát âm rất tốt, đọc đúng dấu nhấn”. Điều này khiến tôi rất ngạc nhiên, vì dấu nhấn là điểm quan trọng hàng đầu trong phát âm tiếng Anh.
Riêng Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì đúng là huyền thoại, điều này được thể hiện rõ qua thái độ nồng hậu, quý trọng đặc biệt của các chính trị gia và chính khách châu Phi, trong chuyến đi thăm châu lục này năm 1980 mà tôi được chọn đi phiên dịch. Đối với họ, chiến thắng Điện Biên Phủ gắn liền với tên tuổi tướng Giáp, mở đường cho khả năng chiến thắng chế độ thực dân trên thế giới.
Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình cũng gây ấn tượng mạnh với tôi từ những ngày còn học ở Paris, khi bà là trưởng phái đoàn trong Hội nghị bốn bên về Hiệp định Paris mà tôi có tham gia phiên dịch cho một số hoạt động không chính thức. Là nữ trưởng đoàn trẻ đẹp, phong thái quý phái, lại có ngoại ngữ tốt, bà Bình đã chiếm được rất nhiều cảm tình của các giới và rất thuận lợi trong tiếp xúc.
Trong con mắt của người phương Tây, tuy vóc người nhỏ nhắn nhưng ở bà Bình toát lên phong thái đĩnh đạc, trí thức, không phô trương nhưng có gì đó rất đáng nể. Hình ảnh đó của “Việt cộng” làm cho cả thế giới ngạc nhiên; còn chúng tôi thì vui mừng, tự hào vì đất nước có một người đại diện như vậy.
Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch cũng để lại trong tôi những ấn tượng đặc biệt. Phong thái lịch lãm và sự sắc sảo, thẳng thắn, cởi mở của ông khiến những người đối diện rất thích thú và nể trọng, nhất là cánh nhà báo phương Tây. Họ thường nhận xét “ông này rất khó chơi, nhưng tụi tôi thích ông ấy”.
Tôi xin kể hai mẩu chuyện về ông Xuân Thủy. Thời năm 1970, châu Âu nổi lên phong trào phụ nữ mặc “minijupe/miniskirt” (váy ngắn). Khi ông Xuân Thủy từ Hà Nội sang Pháp trở lại, vừa xuống máy bay ở Paris, một nhà báo phương Tây đột ngột hỏi: “Ông nghĩ gì về minijupe?”. Đây là câu hỏi vui nhưng lại hơi khiêu khích, có tính “nắn gân, thử sức” xem thái độ và khả năng ứng xử của ông trưởng đoàn miền Bắc Việt Nam ra sao.
Thường thì thời đó người ta sẽ dễ sa vào câu trả lời thể hiện lập trường, quan điểm, phê phán lối sống phương Tây... Còn ông Xuân Thủy chỉ cười tủm tỉm và nói: “Tôi nghĩ nó không thể ngắn hơn được nữa”. Đó là một câu trả lời ngắn gọn, thông minh, dí dỏm. Nghe vậy, các nhà báo phương Tây ồ lên cười thích thú, “ghi điểm” cho ông Xuân Thủy.
Chuyện thứ hai, khi phiên dịch các buổi chiêu đãi, nhiều khi mình đành nhịn đói vì phải liên tục dịch luân phiên cho chủ và khách. Ông Xuân Thủy có lần chủ động nói với mọi người trong bàn tiệc: “Có lẽ chúng ta tập trung ăn vài phút, để cô phiên dịch có thể ăn”. Điều đó làm tôi rất cảm động, dù có chút e ngại. Trong ngoại giao thông thường thì không ai nói thế, nhưng qua đó có thể thấy sự quan tâm của ông đối với cấp dưới và những người xung quanh thế nào.