Sau khi cho ý kiến từ đợt 1, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục xem xét Nghị quyết về thời giờ làm thêm trong 1 tháng và trong 1 năm của NLĐ tại phiên họp diễn ra chiều 23-3.
Báo cáo về nội dung này, Chủ nhiệm Uỷ ban Xã hội Nguyễn Thuý Anh cho biết, Uỷ ban Xã hội thấy rằng việc nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng lên mức không quá 72 giờ như đề xuất của Chính phủ là quá cao và cơ quan soạn thảo chưa đưa ra căn cứ thuyết phục.
Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thuý Anh
Do đó, Uỷ ban Xã hội đề nghị chỉ nên nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá không quá 60 giờ, tương ứng với việc được áp dụng thời gian làm thêm tối đa trong 1 năm từ 200 giờ lên không quá 300 giờ (150%).
Đây cũng là ý kiến được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam lựa chọn để thực hiện mục tiêu bảo đảm sức khỏe, tái tạo sức lao động, an toàn lao động của người lao động.
Loại ý kiến thứ hai, bày tỏ sự đồng tình nâng trần thời gian làm thêm giờ trong 1 tháng từ không quá 40 giờ lên không quá 72 giờ như tờ trình của Chính phủ và cho rằng, đây là mức hợp lý trong bối cảnh hiện nay. Ý kiến này chung quan điểm với Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
Do còn hai loại ý kiến khác nhau, Thường trực Ủy ban Xã hội đã xin ý kiến thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hai phương án này. Kết quả: 13/18 vị tán thành phương án 1 và 5/18 vị tán thành phương án 2.
Vì thế, dự thảo nghị quyết quy định, trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng NLĐ làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của NLĐ thì được sử dụng NLĐ làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.
Thảo luận tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung tiếp tục thuyết phục Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho phép được tăng lên 72 giờ.
“Tôi xin nói đây là giải pháp tạm thời, dù không muốn nhưng đây là vấn đề rất cần thiết, các khảo sát cho thấy đa số NLĐ và doanh nghiệp đều đồng tình theo đề xuất của Chính phủ” - ông Dung nói.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung giải trình thêm tại phiên họp
Nêu thực tiễn, ông Dung cho biết, do sức ép đơn hàng, hầu hết doanh nghiệp đều trực tiếp thoả thuận với NLĐ. “Nhưng “thoả thuận ngấm ngầm” đôi khi khiến quyền lợi NLĐ không được đảm bảo’ – Bộ trưởng Lao động – Thương binh – Xã hội lo ngại.
Tham gia phát biểu, Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và công nghiệp Việt Nam Phạm Tấn Công cũng đồng tình với đề xuất của Chính phủ. Theo ông Công, việc nới trần làm thêm giờ không phải là ưu đãi cho doanh nghiệp mà là sự cần thiết cho nền kinh tế.
“Hơn hai tháng qua đã có hơn 6,6 triệu ca nhiễm Covid-19. Nếu 1 ca 10 ngày nghỉ thì tổn thất 66 triệu ngày công. Còn chỉ trong 23 ngày đầu tháng này thì có gần 4 triệu ca nhiễm, tương đương hơn 40 triệu ngày công bị mất” – ông Công ước tính và cho rằng điều này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoạt động của nền kinh tế.
Cho ý kiến sau đó, Chủ tịch Quốc hội lưu ý phải quan tâm đến sức khoẻ hậu Covid-19, nên cân nhắc giữa cái lợi trước mắt và lâu dài thì không phải ai cũng làm thêm được.
Ông Huệ cũng cho biết “không nhận được bất cứ văn bản nào của doanh nghiệp hay hiệp hội doanh nghiệp bằng văn bản đề xuất nâng lên 72 giờ”.
“Không có lý luận nào thuyết phục để nâng lên 72 giờ, cũng không có số liệu bao nhiêu đơn hàng doanh nghiệp làm không kịp để mà phải nâng lên 72 giờ” –Chủ tịch Quốc hội bình luận.
Chủ tịch Quốc hội cho ý kiến tại phiên họp
Khẳng định việc nới trần làm thêm giờ là quyền của Quốc hội uỷ quyền cho Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội nhắc nhở phải hết sức cân nhắc, trao đổi hết nhẽ và lắng nghe nhau để ra được phương án tối ưu.
Cũng đồng tình chỉ nâng lên 60 giờ, Phó chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương cho rằng phải đánh giá tác động toàn diện chứ không thể chỉ nhìn vào tác động kinh tế. Phó Chủ tịch Quốc hội cũng đề cập đến quan điểm nhiều lần được lãnh đạo Đảng, Nhà nước nêu là “không đánh đổi tính mạng và sức khoẻ của dân để lấy tăng trưởng”.
Cuối phiên họp, 100% thành viên Uỷ ban Thường vụ Quốc hội có mặt đã nhất trí thông qua nghị quyết với quy định trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng NLĐ làm thêm tối đa 300 giờ trong 1 năm có nhu cầu và được sự đồng ý của NLĐ thì được sử dụng NLĐ làm thêm trên 40 giờ nhưng không quá 60 giờ trong 1 tháng.
Nghị quyết cũng quy định trường hợp người sử dụng lao động có nhu cầu và được sự đồng ý của NLĐ thì được sử dụng NLĐ làm thêm trên 200 giờ nhưng không quá 300 giờ trong 01 năm. Quy định này không áp dụng với NLĐ từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi; NLĐ là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; NLĐ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; Lao động nữ mang thai từ tháng thứ 7 hoặc từ tháng thứ 6 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; đ) Lao động nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi.
Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2022.