Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) vừa có tờ trình gửi các ĐBQH về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân (HĐND) bầu hoặc phê chuẩn (sửa đổi).
Dự thảo được xây dựng nhằm kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ và việc lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị.
Tại lần sửa đổi này, để phù hợp với Luật Tổ chức Quốc hội và Quy định số 96-QĐ/TW, điều chỉnh một số chức danh theo Luật Tổ chức chính quyền địa phương sửa đổi, bổ sung năm 2019, UBTVQH bổ sung thêm chức danh Tổng Thư ký Quốc hội vào đối tượng lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm.
Quốc hội sẽ xem xét, quyết định sửa đổi Nghị quyết về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm người giữ chức vụ do Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn
Thường vụ Quốc hội cũng trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung các trường hợp không lấy phiếu tín nhiệm, trong đó có người đã có thông báo nghỉ công tác chờ nghỉ hưu, thông báo nghỉ hưu hoặc được bổ nhiệm, bầu cử trong năm lấy phiếu tín nhiệm. Việc này, theo UBTVQH, nhằm phù hợp với Quy định số 96-QĐ/TW và thực tiễn của việc lấy phiếu tín nhiệm trong thời gian qua.
Trong nội dung xin ý kiến Quốc hội, UBTVQH cho biết, qua tổng kết thực tiễn lấy phiếu tín nhiệm và ý kiến góp ý của nhiều cơ quan, đa số ý kiến UBTVQH nhất trí cần thiết bổ sung vào dự thảo Nghị quyết quy định về việc không lấy phiếu tín nhiệm đối với người nghỉ chữa bệnh hiểm nghèo có xác nhận của cơ sở y tế và không điều hành công tác từ 06 tháng trở lên theo quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tính đến thời điểm khai mạc kỳ họp lấy phiếu tín nhiệm.
Liên quan đến căn cứ đánh giá mức độ tín nhiệm đối với người được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, trên cơ sở Quy định số 96-QĐ/TW, Luật Cán bộ, công chức, dự thảo Nghị quyết quy định chi tiết nội dung của các tiêu chí đánh giá phù hợp với đối tượng được lấy phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, HĐND; bổ sung nội dung trách nhiệm của người được lấy phiếu trong triển khai nghị quyết, kết luận về công tác giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, HĐND, các Ban của HĐND.
Kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực, phạm vi phụ trách; tôn trọng, lắng nghe và nghiên cứu để giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân; kết quả thực hiện cam kết và lời hứa (nếu có) cũng được coi là những căn cứ để đánh giá mức độ tín nhiệm.
Trước đó, Nghị quyết 85/2014/QH13 chỉ có 2 tiêu chí đánh giá, gồm: Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; việc chấp hành Hiến pháp và pháp luật; Kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Ngoài ra, để làm rõ thẩm quyền, thời hạn của một số bước trong quy trình lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm tại Quốc hội, HĐND, dự thảo Nghị quyết bổ sung về thẩm quyền UBTVQH, Thường trực HĐND quyết định danh sách những người được lấy phiếu tín nhiệm; bổ sung quy định về thời gian là chậm nhất 45 ngày để gửi văn bản yêu cầu người được lấy phiếu tín nhiệm gửi Báo cáo và Bản kê khai tài sản, thu nhập đến UBTVQH, Thường trực HĐND.
Dự thảo cũng bổ sung quy định Ủy ban MTTQ Việt Nam tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri liên quan đến người được lấy phiếu tín nhiệm (nếu có) gửi đến UBTVQH, Thường trực HĐND chậm nhất là 25 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp Quốc hội, kỳ họp HĐND.
Phiên họp lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm chỉ được tiến hành khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND tham dự.
Cùng với việc sắp xếp, bổ sung quy trình lấy phiếu tín nhiệm trong phiên họp lấy phiếu tín nhiệm trên cơ sở các quy định tương ứng trong Nội quy kỳ họp Quốc hội, cơ quan thường trực của Quốc hội đề xuất sửa đổi quy định về quy trình bỏ phiếu tín nhiệm ở Quốc hội và HĐND cho thống nhất. Theo đó, không thảo luận tại Hội trường mà chỉ thảo luận tại Đoàn đại biểu Quốc hội, Tổ đại biểu HĐND và báo cáo kết quả trước Quốc hội và HĐND.
Hệ quả đối với người được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm cũng được sửa đổi để thể chế hóa Quy định số 96-QĐ/TW.
Cụ thể, người được lấy phiếu tín nhiệm có quá nửa đến dưới hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND đánh giá “tín nhiệm thấp” thì xin từ chức. Trường hợp không xin từ chức thì cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu người đó để Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn có trách nhiệm trình Quốc hội, HĐND tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm tại kỳ họp đó hoặc kỳ họp gần nhất.
Người được lấy phiếu tín nhiệm có từ hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND trở lên đánh giá “tín nhiệm thấp” thì cơ quan hoặc người có thẩm quyền giới thiệu người đó để Quốc hội, HĐND bầu hoặc phê chuẩn có trách nhiệm trình Quốc hội, HĐND tiến hành miễn nhiệm tại kỳ họp đó hoặc kỳ họp gần nhất.
Với người đồng thời giữ nhiều chức vụ thì việc bỏ phiếu tín nhiệm, miễn nhiệm được thực hiện một lần đối với các chức vụ đó.
Không lấy phiếu tín nhiệm với Chủ tịch UBND quận, huyện tại Đà Nẵng, TPHCM
Cũng tại dự thảo Nghị quyết được trình, UBTVQH đề xuất bổ sung 01 điều quy định việc sửa đổi khoản 1, Điều 2 của Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Đà Nẵng và sửa đổi khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 131/2020/QH14 ngày 16/11/2020 của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM theo hướng không quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với Chủ tịch UBND quận.
Theo quy định tại Nghị quyết số 119/2020/QH14 và Nghị quyết số 131/2020/QH14, Chủ tịch UBND quận tại TP. Đà Nẵng và TPHCM là chức danh do Chủ tịch UBND TP bổ nhiệm. Do đó, việc sửa đổi các Nghị quyết này là để phù hợp với Quy định số 96-QĐ/TW (quy định chỉ lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu), đồng thời cũng để bảo đảm tính thống nhất của các Nghị quyết trong việc không quy định lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh Chủ tịch UBND phường (cũng là chức danh do Chủ tịch UBND cấp trên bổ nhiệm).
Việc giám sát đối với Chủ tịch UBND quận tại các TP trên vẫn được thực hiện thông qua cơ chế lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh lãnh đạo cấp ủy địa phương theo Quy định số 96-QĐ/TW; HĐND thành phố giám sát hoạt động của UBND quận, chất vấn và xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch UBND quận theo quy định.