Hiến tặng tư liệu quý cho nhà nước
Những ngày này, nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan (trú 5/28 Cao Bá Quát, TP.Huế, Thừa Thiên – Huế) nhận được rất nhiều lời động viên, thăm hỏi, chung vui về việc ông vừa hiến tặng nhà nước tài liệu quý là bộ Đại Nam thực lục (ĐNTL) của Quốc sử quán triều Nguyễn do Trường Đại học Kieo (Nhật Bản) sưu tầm, ấn hành khẳng định chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam.
Nhà nghiên cứu Hồ Tấn Phan vừa hiến tặng tư liệu quý khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam
Ông Phan cho biết, trong quá trình sưu tầm cổ vật, tài liệu lịch sử, ông đã tìm được nhiều tài liệu chính sử triều Nguyễn. Trong đó có bộ ĐNTL, một công trình sưu tầm, nghiên cứu và xuất bản công phu, diễn ra trong suốt 21 năm (1961 - 1981) của Trường Đại học Keio. Bộ sách được các nhà nghiên cứu Nhật Bản sưu tầm, sao chụp đúng nguyên dạng bộ chính sử ĐNTL bao gồm hơn 550 quyển, gần 33.000 trang do Quốc sử quán nhà Nguyễn biên soạn, ấn hành từ năm vua Minh Mạng thứ 2 (1821) đến năm Bảo Đại thứ 14 (1939). ĐNTL gồm 2 phần là tiền biên (chép việc từ năm 1558 đến 1777, chủ yếu chép việc ở xứ Đàng Trong) và chính biên (chép việc từ năm 1778 đến 1925 cuối thời vua Khải Định). Riêng ĐNTL kỷ phụ biên (thời vua Thành Thái, Duy Tân) và Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ (thời Khải Định) được chép tay thành 6 bản để lưu giữ. Qua chiến tranh, loạn lạc, các bản in ĐNTL dần bị thất lạc hoặc bị mối mọt làm hư hại khiến nguồn tư liệu này trở nên hiếm hoi.
Tuy nhiên, từ năm 1961, Trường Đại học Keio đã sưu tầm, nghiên cứu và sao lưu đúng nguyên dạng ĐNTL. Năm 1981, bản in lại tại Nhật thành 20 tập, 8.131 trang. Bằng nhiều con đường khác nhau, từ việc sưu tầm, tìm mua ở những hiệu sách giai đoạn trước năm 1975 và được các nhà nghiên cứu Nhật Bản tặng trong những lần đến Huế, ông Hồ Tấn Phan đã góp nhặt hoàn chỉnh bộ ĐNTL in tại Nhật. Từ bộ sách này, ông Phan sao lục và đóng tập lại một cách đầy đủ thành 20 tập để để bảo quản. Tháng 5-2015, thông qua Sở VH-TT&DL tỉnh Thừa Thiên - Huế, ông Phan hiến tặng bộ tư liệu cho Ủy ban Biên giới – Bộ Ngoại giao. Ủy ban này đã tặng Giấy khen cho ông Phan vì đã có công sưu tầm, hiến tặng tài liệu liên quan đến chủ quyền biển đảo Việt Nam.
Bộ sách Đại Nam thực lục do Trường ĐH Keio nghiên cứu trong 21 năm và xuất bản
Ông Hồ Tấn Phan chia sẻ: “Chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc bị xâm chiếm là điều mà mọi công dân Việt Nam đều quan tâm, trăn trở. Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam đã được chứng minh qua pháp lý, khoa học và thực tiễn. Tuy nhiên, cần phải có nhiều tư liệu để trên thế giới biết được rằng Việt Nam có chủ quyền đối với các quần đảo này”.
ĐNTL là tài liệu chính sử chính thống có giá trị pháp lý cao của Việt Nam do triều đình nhà Nguyễn biên soạn. Bộ chính sử, khi được tổ chức sưu tầm, ấn hành ở nước ngoài thì nó đã vượt qua tầm quốc gia, vì thế bản được in ở Nhật Bản càng làm tăng giá trị, mang tính trung thực, khách quan.
Thực thi chủ quyền Hoàng Sa từ triều Nguyễn
Bộ tư liệu có 13 đoạn văn bản ghi chép việc thực thi chủ quyền của Việt Nam trên 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa... Qua so sánh, đối chiếu giữa đoạn ghi chép trong ĐNTL bản in ở Nhật có ghi việc thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với bộ ĐNTL bản in dưới triều Nguyễn thì hoàn toàn giống nhau. ĐNTL tiền biên có quyển thứ 10; trong Đại Nam thực lục chính biên đệ Nhất kỷ có các quyển 22,50,52,55; trong Nhị kỷ có các quyển 104, 122,154,165,176,194,204 và trong Tam kỷ có quyển số 49... Tất cả các quyển này đều nói rõ về Hoàng Sa, Trường Sa và những hoạt động của nhà Nguyễn khi thường xuyên cắt cử binh lính ra xác định mốc giới, tuần tra bảo vệ 2 quần đảo này.
Ủy ban Biên giới quốc gia - Bộ Ngoại giao tặng Giấy khen cho ông Hồ Tấn Phan
Phần ĐNTL tiền biên, quyển 10, tờ 24B có chép: “Mùa thu tháng 7, dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu, nước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp (lương thảo) cho rồi cho đưa về. Chúa đã sai viết thơ (cảm ơn)”. Hay như: “Ở ngoài biển, về xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, có hơn 130 bãi cát cách nhau hoặc đi một ngày đường hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy nghìn dặm, tục gọi là Vạn lý Trường Sa. Trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa, vích, ba ba... Buổi quốc sơ đặt đội Hoàng Sa 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào. Hằng năm, đến tháng 3 thì đi thuyền ra, độ 3 đêm ngày thì đến bãi, tìm lượm hóa vật đến tháng 8 thì về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ người ở thôn Tứ Chánh, thuộc Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Côn Lôn để tìm hóa vật, đội này cũng do đội Hoàng Sa kiêm quản” (bản dịch Viện Sử học xuất bản ở Hà Nội năm 1962).
Trong cuốn ĐNTL chính biên đệ nhị kỷ (quyển 136, tờ 24b, 24a, trang 3.827) in ở Nhật về vua Minh Mạng có đoạn chép: “Tháng 1 mùa xuân năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836). Bộ Công tâu lên: “Cương giới mặt nước biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia đã phái vẽ bản đồ, mà hình thế nó xa rộng, mới chỉ được một nơi, cũng chưa rõ ràng. Hằng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái binh biền thủy quân và vệ giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, bắt hai tỉnh Quảng Ngãi...
Vua y lời tâu, sai Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật, đem binh biền đi, chuẩn cho mang theo 10 cái bài gỗ, đến nơi đó dựng làm dấu ghi. Mỗi bài gỗ dài 5 thước, rộng 5 tấc, dày 1 tấc, mặt bài khắc những chữ: Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, Thủy quân Chánh đội trưởng Suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh đi Hoàng Sa trông nom, đo đạc đến đây lưu dấu để ghi nhớ” (bản dịch của Nhà xuất bản Giáo dục, năm 2001)…